Trang chủ / Văn Mẫu THCS / Văn lớp 8 / Giới thiệu về món ăn dân tộc

Giới thiệu về món ăn dân tộc

Đề bài: Giới thiệu về món ăn dân tộc

Bài làm 1

Trong những ngày xuân đến rộn ràng, lòng người náo nức mừng dịp Tết Nguyên Đán, chúng ta lại nghĩ đến những món ăn đậm đà bản sắc dân tộc. Và bánh chưng là một món ăn không thể thiếu trong số đó.

Bánh chưng từ lâu đã là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Tương truyền rằng vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, nhà vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu xuân, vua Hùng họp các hoàng tử lại và yêu cầu các hoàng tử đêm dâng lên vua cha thứ mà họ cho là quí nhất để cúng lên bàn thờ tổ tiên nhân ngày đầu xuân. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hi vọng mình được vua cha truyền ngôi. Trong khi đó, người con trai thứ mười tám của Hùng Vương là Lang Liêu có tính tình hiền hậu, sống gần gũi với người nông dân lao động nghèo khổ nên ông lo lắng không có gì quí giá để dâng lên vua cha. Một hôm, Lang Liêu nằm mộng thấy có vị thần đến chì bảo cho cách làm một loại bánh từ lúa gạo và những thức có sẵn gần gũi với đời sống hàng ngày. Tỉnh dậy, ông vô cùng mừng rỡ làm theo cách chỉ dạy của thần. Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ, đủ cả sơn hào hải vị, nem công chả phượng. Hoàng tử Lang Liêu thì chỉ có hai loại bánh được làm theo lời mộng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ bèn hỏi, thì được Lang Liêu đem chuyện thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của bánh. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn đạt tên cho bánh là bánh chưng và bánh dày rồi truyền ngôi vua lại cho Lang Liêu.

Cách thức làm bánh rất đơn giản. Cũng theo truyền thuyết kể lại thì cách làm bánh ngày nay không khác so với lời báo mộng của thần cho Lang Liêu cũng như cách làm bánh của vị lang nặng tình với nhân dân là mấy. Nguyên liệu làm bánh bao gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong. Những nguyên liệu ấy vừa dễ kiếm lại vừa giàu ý nghĩa: vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Gạo nếp thường dùng là gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này có hạt to, tròn, đều và thơm dẻo hơn các vụ khác. Cầu kì hơn còn có gia đình phải chọn bằng được nếp cái hoa vàng hay nếp nương. Đỗ xanh thường được lựa chọn công phu. Sau thu hoạch đỗ cần phơi nắng đều thật khô, sàng sẩy hết rác, bụi, hạt lép, phân loại hạt rồi đóng vào hũ, lọ bằng sành là tốt nhất. Thịt lợn nên chọn lợn ỉn được nuôi hoàn toàn bằng phương pháp thủ công (nuôi chuồng hoặc nuôi thả, thức ăn bằng cám rau tự nhiên không dùng thuốc tăng trọng hoặc thức ăn gia súc). Khi chọn thịt thì lấy thịt ba chỉ (ba dọi) vừa có mỡ vừa có nạc khiến nhân bánh có vị béo đậm đà, không khô bã. Ngoài ra còn cần các gia vị như hạt tiêu, hành củ dùng để ướp thịt làm nhân; muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt thịt ướp không nên dùng nước mắm vì bánh sẽ chóng bị ôi, thiu. Lá để gói bánh thường là lá cây dong tươi. Lá dong chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Tuy nhiên, tùy theo địa phương, dân tộc, điều kiện và hoàn cảnh, lá gói bánh có thể là lá chít hoặc vừa là lá dong vừa là lá chít. Lạt buộc bánh chưng thường dùng lạt giang được làm từ ống cây giang. Lạt có thể được ngâm nước muối hay hâp cho mềm trước khi gói.

Nên Xem:  Phân tích cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong bài thơ Tây Tiến

Trước khi làm bánh cần có sự chuẩn bị sơ chế nguyên liệu kĩ lưỡng. Lá dong phải rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Tiếp đó dùng dao bài cắt lột bỏ bớt cuộng dọc sống lưng lá để lá bớt cứng. Gạo nếp nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 12-14 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì ngâm nước muối. Đỗ xanh làm dập vỡ thành các mảnh nhỏ, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Thịt lợn đem rủa để ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ 2.5 cm đến 3 cm sau đó ướp với hành tím xắt mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt để khoảng hai giờ cho thịt ngấm.

Khi làm bánh, trước hết phải xếp lạt giang một cách hợp lí rồi trải lá dong, lá chít trước. Sau đó mới trải một lớp gạo rồi đến một lớp đỗ, đặt thịt vào giữa làm nhân rồi lại trải tiếp một lớp đỗ, một lớp gạo. Sau khi quấn lá chặt lại thì dùng lạt giang buộc chắc chắn.

Theo quan niệm phổ biến hiện nay, cùng với bánh giầy, bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa: bánh chưng màu xanh lá cây, hình vuông tượng trưng cho Đất, bánh dầy tượng trưng cho trời. Tuy nhiên, theo một số học giả nổi tiếng, bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét, đồng thời bánh chưng và bánh giầy tương trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam. Bánh tét, thay thế vị trí của bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng người Việt ở miền nam Việt Nam, cũng theo những học giả trên là dạng nguyên thủy của bánh chưng.

Bánh thường được làm vào các dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 Âm lịch. Thiếu bánh chưng, bánh dầy ắt không thành cái Tết hoàn chỉnh: “Thịt mỡ bánh chưng xanh, dưa hành câu đối đỏ”. Hơn thế, gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt mỗi dịp tết đến xuân về.

Là loại bánh có lịch sử lâu đời nhất trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt. Sự ra đời và tục lệ làm bánh chưng ngày Tết, ngày giỗ Tổ muốn nhắc nhở con cháu về truyền thông của dân tộc đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước. Theo thời gian, nền văn minh công nghiệp đang dần được hình thành song ý nghĩa và vai trò của bánh chưng thì vẫn còn nguyên vẹn.

Bài làm 2

Dải đất hình chữ S của đất nước Việt Nam với biết bao nhiêu đặc sản dân tộc, từ vùng cao cho tới đồng bằng mỗi vùng miền lại có những món ăn khác nhau. Nhắc đến Hà Nội thì Phở là món ăn mà bất kỳ ai cũng phải thử một lần. Phở không chỉ là một món ăn bình thường mà nó chính là đại diện của bản sắc văn hóa ẩm thực của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.

Nên Xem:  Giới thiệu về tổ em, tổ 4

Hiện không có tư liệu chính xác về nguồn gốc của phở, nhưng nhiều người cho rằng món ăn xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Có quan điểm cho rằng, phở bắt nguồn từ món xáo trâu của người Việt. Cũng có quan điểm nói nguồn gốc của phở là phương pháp chế biến thịt bò hầm của Pháp hoặc là từ món ăn Quảng Đông. Mặc dù về nguồn gốc của phở vẫn chưa có tư liệu chính xác, nhưng vào những năm 40 của thế kỷ 20 thì phở đã là một món ăn rất nổi tiếng tại Hà Nội, Nam Định.

Theo thời gian phát triển của đất nước, phở cũng có nhiều biến chuyển, nếu trước kia là những bát phở bò chính, thì bây giờ đã có thêm phở tái, phở gà, phở xào, phở cuốn, phở rán,…và rất nhiều các loại phở khác nhau, giúp làm phong phú cho món ăn của nền ẩm thực Việt.

Phở mang nhiều hương vị khác nhau, phụ thuộc vào người chế biến món ăn. Thành phần chính để tạo nên món phở truyền thống bao gồm bánh phở và nước dùng. Bánh phở là những sợi được chế biến từ gạo, màu trắng và hình dẹt. Nước dùng có mùi thơm từ thảo quả nướng, hồi, quế, gừng và vị ngọt từ xương lợn ninh nhừ. Cho phở đã trần qua nước vào bát, thái mỏng thịt bò hoặc thịt gà trần nước nóng rồi cho vào bát phở. Cho nước dùng vào là đã có một bát phở thơm ngon, nóng hổi.

Một bát phở ngon yếu tố quyết định nằm ở nước dùng, vì thế khâu chuẩn bị chế biến nước dùng phải thật kỹ lưỡng. Từ việc chọn xương đến ninh xương, nêm nếm gia vị đều phải đảm bảo độ chính xác. Nước dùng phải có vị ngọt từ dương, có mùi thơm và màu trong mới đạt tiêu chuẩn. Điều này đòi hỏi người chế biến phải có kinh nghiệm và đôi khi cần có thêm “bí quyết gia truyền”. Khi ăn phở, người ta sẽ vắt một chút chanh và ăn kèm với rau thơm, tất cả hòa quyện vào nhau khiến bát phở ngon đúng điệu, thỏa mãn những thực khách tứ phương.

Phở đã trở thành một đặc trưng của ẩm thực dân tộc Việt Nam nói chung và của Hà Nội nói riêng. Dù là Xuân – Hạ hay Thu – Đông, buổi sáng – buổi trưa hay buổi tối, bất cứ khi nào chúng ta cũng có thể thưởng thức phở. Dù đi đâu, hình ảnh quán phở với hương vị đặc trưng đã trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn người con Việt. Bạn bè trên thế giới đến với Việt Nam, ai cũng phải một lần thử qua món phở nếu không đó sẽ là một chuyến đi không trọn vẹn. Phở cũng xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm của các nhà văn nhà thơ như Vũ Bằng, Thạch Lam…. Trong ca dao, dân ca phở cũng đi vào như một giá trị tinh thần thiết yếu của người dân.

Đã bao thế hệ đi qua, dưới đôi tay khéo léo của người đầu bếp, phở vẫn vẹn nguyên. Bát phở nghi ngút khói cùng mùi thơm đặc trưng đã lặng lẽ khắc ghi trong trái tim mỗi người con Việt Nam – là niềm tự hào của cả dân tộc.

Bài làm 3

Là đại diện của nền văn hóa ẩm thực cũng như tín ngưỡng tâm linh của dân tộc Việt Nam, bánh chưng là một món ăn quen thuộc trong đời sống của mỗi gia đình người Việt. Đặc biệt là vào dịp Tết đến Xuân về, hình ảnh chiếc bánh chưng xanh luôn hiện diện, tượng trưng cho niềm hạnh phúc, may mắn và sum vầy.

Nên Xem:  Hình ảnh người anh hùng cứu nước qua bài thơ Đập đá ở Côn Lôn

Phong bánh chưng ngày Tết được bày trên mâm cúng tổ tiên đã trở thành một mỹ tục. Nguồn gốc của bánh chưng gắn liền với sự tích chàng hoàng tử Lang Liêu đời vua Hùng thứ 6. Chàng đã dùng lúa nếp làm nên những chiếc bánh chưng, bánh dày thay cho các thứ sơn hào, hải vị dâng tiến vua cha. Bánh chưng mộc mạc, giản dị nhưng lại mang một ý nghĩa to lớn, nó thể hiện lòng thành kính, sự tự hào của con cháu đối với ông bà, tổ tiên.

Trong dịp Tết Nguyên Đán, không có gia đình Việt Nam nào thiếu vắng cặp bánh chưng xanh trên mâm cúng ông bà, ông vải. Để gói ra được chiếc bánh chưng vuông vắn, xanh mượt không phải là điều đơn giản. Đầu tiên cần phải phải chuẩn bị nguyên liệu: gạo nếp (có hạt tròn đều, chắc, nên chọn nếp cái hoa vàng để gói bánh chưng), thịt lợn (thịt ba chỉ tươi ngon, sạch), đậu xanh (không vỏ), lá dong (kích thước vừa phải, chọn loại tươi xanh, rửa sạch và phơi cho ráo nước) và lạt buộc )làm bằng giang, chẻ mỏng, có thể mua lạt đã được chẻ sẵn).

Nguyên liệu sau khi chuẩn bị đầy đủ, chúng ta sẽ bắt đầu công đoạn gói bánh chưng. Cách gói bánh chưng đối với nhiều người có thể đơn giản nhưng với một số người lại khá khó khăn. Để gói được chiếc bánh đẹp đòi hỏi người gói phải có kinh nghiệm, khéo léo và cẩn thận. Đầu tiên dùng 2 lá dong xếp thành hình dấu cộng, sau đó cho gạo nếp vào và san đều. Sau lớp gạo nếp là lớp đậu bên trong, rồi đặt vào đó 2 – 3 miếng thịt, tiếp đó cho một lớp đậu và cuối cùng là một lớp gạo. Khéo léo bẻ 4 góc lại cho vuông rồi bộc lạt vào.

Khi đã xong xuôi đâu vào đấy, ta chuẩn bị cho khâu nấu bánh chưng, thời gian để bánh chín sẽ kéo dài từ 10 – 12 giờ. Trong quá trình đun, thi thoảng phải kiểm tra nước, nếu thấy nước cạn thì phải đổ thêm sao cho nước luôn ngập bánh. Đối với những chiếc bánh ở trên nên được lật giở để bánh được chín đều. Sau khi bánh chín, vớt ra và rửa lướt qua để loại bỏ lớp mỡ dính trên bề mặt vỏ. Sau đó xếp bánh lên mặt phẳng và lấy một mặt phẳng nặng khác đè lên để ép hết nước trong bánh ra ngoài. Thông thường sẽ ép khoảng 2 – 3 giờ đồng hồ, sau đó phải nắn bánh sao cho vuông vắn và đẹp mắt.

Với sự đa dạng của ẩm thực, bánh chưng ngày nay được phát triển thành nhiều loại, ngoài bánh chưng truyền thống còn có bánh chưng cốm, bánh chưng gấc, bánh chưng ngũ sắc,… Mặc dù có nhiều loại khác nhau nhưng chúng đều mang trong mình một ý nghĩ thiêng liêng, tượng trưng cho đất mẹ bao la, có đầy đủ nguyên liệu gạo thịt tượng trưng cho muôn loài.

Bánh chưng là một sản vật quý giá mà ông cha ta để lại, một nét đẹp văn hóa lâu đời của đất nước – con người Việt Nam. Nó là một thứ bánh hoàn hảo, là biểu tượng của tổ tiên, một nét đẹp truyền thống mà người dân mang dòng máu Lạc Hồng cần phải giữ gìn và phát huy.

 

hochoi.net - Học Hỏi

Có thể sử dụng ctrl + F để copy code nhanh hơn nhé!