Trang chủ / Văn Mẫu THCS / Văn lớp 9 / Suy nghĩ về số phận và vẻ đẹp của lão Hạc trong tác phẩm cùng tên – BÀI VIẾT SỐ 7 LỚP 9 ĐỀ 2

Suy nghĩ về số phận và vẻ đẹp của lão Hạc trong tác phẩm cùng tên – BÀI VIẾT SỐ 7 LỚP 9 ĐỀ 2

Nam Cao xuất hiện ở chặng cuối của văn học hiện thực, khi mảnh đất về nông thôn, người nông dân đã được cày xới rất kĩ với những cây bút lừng lững ko thể không nhắc tới: Ngô Tất Tố với “Tắt đèn”, Nguyễn Công Hoan với “Bước đường cùng” đã đi vào văn chương như những áng văn bất hủ về sp của những “con sâu cái kiến”. Là người luôn có ý thức “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có”, Nam Cao đã tạo nên những trang viết của riêng ông không hề lẫn với bất cứ ai. Ngoài kiệt tác “Chí Phèo”, tác giả còn ghi dấu ấn trong lòng người đọc bởi hình ảnh người nông dân khắc khổ nhưng đầy tình yêu thương, lòng tự trọng: nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên. Trong chương trình Ngữ Văn, các bạn sẽ gặp dạng đề phân tích số phận và vẻ đẹp của lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên. Với đề này, sau khi nêu khái quát về hoàn cảnh sáng tác, chúng ta nên chia thành hai luận điểm, lựa chọn dẫn chứng phù hợp cho mỗi luận điểm. Đặc biệt, cần khái quát tên đặc điểm rồi mới bắt đều phân tích. Cuối cùng là tổng kết lại về số phận và tính cách nhân vật, nhận xét về nghệ thuật viết văn và tài năng, tấm lòng tác giả. Sau đây sẽ là những bài tham khảo cho bạn. Chúc các bạn học tập tốt!

BÀI VĂN MẪU SỐ 1 SUY NGHĨ VỀ SỐ PHẬN VÀ VẺ ĐẸP CỦA LÃO HẠC TRONG TÁC PHẨM “LÃO HẠC” CỦA NAM CAO

Xuôi dòng văn học hiện thực Việt Nam những năm 1930- 1945, nếu nói Ngô Tất Tố là cây cổ thụ khai sáng cho thể loại này thì Nam Cao lại chính là người đưa chúng đến đỉnh cao nghệ thuật. Để làm nên sự thành công của Nam Cao, phải kể đến tác phẩm “Lão Hạc” đã khắc họa xuất sắc hình tượng người nông dân với số phận bất hạnh nhưng vẫn sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp.

Những năm nửa đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp cơ bản hoàn thành xong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Xã hội Việt Nam có nhiều biến động, chia thành nhiều giai cấp mà trong đó, khổ cực nhất vẫn là người nông dân. Cuộc sống làng quê bị bao trùm bởi cái đói, miếng ăn và nước mắt. Khi ấy, giữa những tiếng khóc oan trái “kêu trời không thấu” ấy, Nam Cao đã cất ngòi bút, nói hộ nỗi lòng và tình cảm biết bao nhiêu người dân bấy giờ. Tác phẩm “Lão Hạc” ra đời trong hoàn cảnh đó. Nhân vật lão Hạc được nhìn nhận và miêu tả qua cái nhìn và tấm lòng của nhân vật ông giáo.

Trước hết, lão Hạc hiện lên với số phận bi đát, cuộc đời bất hạnh. Cũng như bao người nông dân khác, cuộc đời lão Hạc bị bủa vây bởi trong sự nghèo đói. Không có ruộng cày, toàn bộ gia tài của lão chỉ có con chó và một mảnh vườn. Nhưng mảnh vườn ấy cũng còm cõi, xơ xác, hoa màu chỉ đủ cho lão bòn mót. Cho nên lão phải làm thuê, làm mướn, đem sức mình đổi lấy miếng. Rồi sự túng quẫn ngày càng đe dọa lão. Sau một trận ốm kéo dài hai tháng mười tám ngày, “lão yếu đi ghê lắm, tiền bấy lâu nay dành dụm đều cạn kiệt, lão lại không có việc làm. Rồi bão đến, phá sạch sành sanh hoa màu trong vườn, giá gạo thì cứ đẩy cao mãi lên. Cái đói, cái nghèo cứ đeo đẳng, để đến một lúc lão cũng phải thốt lên: “Cái kiếp chỉ nhỉnh hơn kiếp một con chó”.

Đã nghèo, cuộc sống của lão Hạc còn bị bủa vây bởi số phận bất hạnh. Vợ mất sớm, lão một mình gà trống nuôi con. Nhưng sợi dây tình cảm ấy cũng không giữ được mãi. Chính cái nghèo đã khiến lão bó tay trước hạnh phúc không thành của đứa con trai độc nhất. Cái nghèo không cho lão dựng vợ cho con để trọn đạo làm cha. Cũng vì thế mà anh con trai phải bỏ đi đồn điền cao su. Thế là cái nghèo cũng cướp luôn đứa con trai khỏi tay lão. Kể với ông giáo mà nước mắt lão ngân ngấn: “Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi nữa?” Câu nói của lão đã nhói lên một nỗi đau bởi nó đã khái quát cả một đời người trong xã hội cũ. Anh con  trai đi biền biệt, lão sống thui thủi một mình trong nỗi buồn ngày đêm chồng chất, chỉ có con Vàng làm bạn. Vậy mà tình cảnh thiếu thốn quẫn đã buộc lão phải chia tay với nó, chia ta với niềm vui, niềm an ủi cuối cùng của mình. Và có lẽ đây cũng chính là giây phút đau đớn nhất của lão. Nỗi bất hạnh chưa dừng ở đó. Sau những ngày ăn khoai, củ chuối, sung luộc, … cuộc sống bế tắc, cùng quẫn đã đẩy lão đến cái chết bằng bả chó. Cái chết vô cùng dữ dội và bi thảm: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết.” Lão đang ở đỉnh cao của cuộc hành xác. Chính nghèo khổ đã đẩy lão đến cái chết thảm khốc chưa từng thấy. Như vậy, không miêu tả quá nhiều, chỉ với một nét chấm phá đã đủ đặc tả cuộc sống thấm thía kiếp nghèo tủi nhục của người nông dân lớp bần cùng hóa. Hiện tại thì cùng quẫn, tương lai thì mịt mờ không lối thoát. Liệu còn gì đau khổ hơn, đen tối hơn những gì mà người nông dân xưa phải chịu?

Nên Xem:  Hướng dẫn cảm thụ văn học bài Cái cầu – Tiếng Việt 3

Dù hoàn cảnh cùng quẫn, số phận bất hạnh nhưng chính trong cảnh đời thê thảm ấy, ta thấy bừng sáng lên vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của người nông dân xưa. Lão Hạc hiện lên là ngươi nông dân giàu tình yêu thương con sâu sắc. Khi không đủ tiền cưới vợ cho con, “lão thương con lắm nhưng biết làm sao được”. Đó là tình yêu thương con đầy bất lực của người cha nghèo. Sau đó, anh con trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Một lần nữa, nỗi đau mất con của người cha “chỉ biết khóc chứ còn biết làm thế nào nữa”. Tiếng khóc của nỗi đau bất lực khi để đứa con tuột khỏi tay mình. Đến khi con đi, lão tự xóa đi quyền sở hữa của mảnh đất để làm thuê. Bởi lão nghĩ “vườn của mẹ nó tậu thì nó hưởng”. Đến cảnh bần cùng, lão vẫn nghĩ cho con: “tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ tổ chết nó”. Cũng vì con, lão đã bán đi đứa con tinh thần của mình- cậu Vàng đã sớm hôm bên cạnh. Để rồi cuối cùng, lão đã tuyên sinh bằng bằng bả chó để bảo toàn hạnh phúc cho đứa con, vì con. Không được học hành, không biết chữ nghĩa nhưng cái chết dữ dội của lão chính là minh chứng cảm động về tình phụ tự nguyên sơ, mộc mạc mà thiêng liêng nhường nào.

Không chỉ là một người cha yêu thương con hết mực, lão còn là một người nông dân chất phác, hiền lành, nhân hậu. Đó là cái tình của lão đối với cậu Vàng được ghi lại qua những con chữ xúc động. Lão gọi nó là cậu Vàng “như bà mẹ hiếm hoi gọi đứa con cầu tự, lão bắt rận, mắng yêu, tắm cho nó. Lão coi nó nhưng đứa cháu, bạn hiền trong nhà mà thương yêu. Để rồi khi bán chó, lão chìm xuống đáy của bể bi kịch. Lương tâm của ông lão đau nhói, lão đã khóc vì trót lừa một con chó: “tôi già bằng này tuổi đầu mà còn đánh lừa một con chó”. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu và trong sạch thì ông lão mới bị dày vò đau đớn như thế.

Đặc biệt, dù là người nông dân nghèo, ở lão Hạc vẫn sáng ngời lòng tự trọng. Dù phải sống với cái đói deo đói dắt, ăn những món ăn tự chế nhưng lão vẫn từ chối sự giúp đỡ của ông giáo gần như là hách dịch. Đó là một lão nông dân còn tiền nhưng lại gửi ông giáo để khi lão chết có tiền làm ma, không muốn làm phiền đến hàng xóm. Lòng tự trọng không cho phép lão làm phiền đến người khác. Cuối cùng, lão phải quyên sinh bằng bả chó. Lòng tự trọng không cho phép lão làm trái với lương tâm của mình: “đói cho sạch, rách cho thơm”. Không giàu sức mạnh phản kháng như chị Dậu nhưng sự phản kháng, đấu tranh với chính mình mới là cuộc chiến khốc liệt nhất. Cái đói khiếp thật, miếng ăn quý thật nhưng vì nó mà đánh đổi nhân cách thì thật đáng buồn. Lão đã chọn cái chết để bảo toàn nhân cách trong khi đã có biết bao nhiêu người ngã khuỵu trước miếng ăn: những Chí Phèo, Binh Tư, bà cái Tí, … Đó chính là vẻ đẹp tiềm ẩn trong người dân nghèo.

Nên Xem:  Nghi luận suy nghĩ về câu nói: “Không nỗi đau rứt lá sao làm nổi nhành mai”

Như vậy, Nam Cao đã khắc họa thành công hình tượng lão Hạc qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sinh động với những dòng trạng thái phức tạp, đối nghịch mà rất biện chứng. Cái mới của Nam Cao còn là đã học được ở phương Tây nghệ thuật xây dựng nhân vật nghịch dị có sự đối lập với tính cách. Nhân vật lão Hạc được soi chiếu qua nhiều cái nhìn và góc độ khác nhau. Nam Cao còn gây ấn tượng bởi cách đảo ngược dòng thời gian kể. Qua hình tượng lão Hạc, Nam Cao đã khắc họa thành công những số phận đau khổ, bất hạnh trong xã hội cũ mà cội nguồn của nó chính là sự thối nát, bất công của xã hội cũ. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, họ vẫn sáng lên chất “người”. Chưa từng đọc sách thánh hiền, không được đi học nhưng cả cuộc đời và vẻ đẹp của họ chính là minh chứng cảm động và đầy đủ nhất về nhân cách con người. Đó chính là thái độ trân trọng, ngợi ca, niềm tin của tác giả dành cho người nông dân. Đó cũng chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Ngày nay, cuộc sống nghèo đói, buồn đau đã đi vào dĩ vãng. Nhưng mỗi lần đọc “Lão Hạc” ta càng thấy xót xa cho ông cha ta thuở trước, thêm tin yêu cuộc sống mới.

BÀI LÀM VĂN SỐ 2 SUY NGHĨ VỀ SỐ PHẬN VÀ VẺ ĐẸP CỦA LÃO HẠC TRONG TRUYỆN NGẮN CÙNG TÊN CỦA NAM CAO

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 – 1945. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những thành công của Nam Cao trong việc xây dựng những hình tượng người nông dân Việt Nam sống dưới ách thống trị nặng nề trong xã hội thực dân nửa phong kiến, những con người phải sống một cuộc đời đầy đau khổ nhưng vẫn mang một vẻ đẹp tâm hồn thật cao quý. Bên cạnh những người do nghèo đói mà đi ăn trộm như Binh Tư, còn có những con người lương thiện giàu lòng tự trọng như Lão Hạc – đóa sen thơm ngát giữa ao bùn!

Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Là một nông dân nghèo, không có ruộng, lão phải cày thuê cuốc mướn. Lão dành dụm, chắt chiu mới có mảnh vườn nho nhỏ. Tài sản duy nhất giúp lão có thêm chút hoa màu. Hoàn cảnh lão thật đơn chiếc, vợ lão mất từ sớm, còn hai cha con mà phải chật vật mới đủ ăn hàng ngày, lấy đâu ra cho con trai cưới vợ. Tiền mặt, tiền cau, tiền rượu, tiền cưới nữa chắc phải mất đến hai trăm. Không lấy được người mình yêu, con trai lão phẫn chí bỏ đi phu cao su, để lại cho lão vài đồng bạc và cậu Vàng. Giờ đây, lão chỉ còn Vàng là kỉ vật của con để lại làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ốm đau, bệnh tật. Ngòi bút bùi ngùi xúc động: “Già rồi, mà ngày cũng như đêm, thui thủi một mình thì ai chả buồn”. Những lúc đó có con Vàng làm bạn cũng đỡ hơn một chút. Lão và con Vàng lây lất sống qua ngày với củ ráy, củ khoai, bữa trai, bữa ốc,…

Cuộc sống của lão càng ngày càng túng thiếu chật vật đến nỗi lão phải xa con Vàng. Trong nụ cười gượng gạo, chứa chan bao nước mắt, cay đắng, xót xa cho số phận: “Thì ra cậu Vàng ăn khỏe hơn tôi, ông giáo ạ. Mỗi ngày cậu ăn thế thì tôi lấy đâu ra tiền mà nuôi. Thôi thì bán phắt đi, đỡ được đồng nào hay đồng nấy”. Xã hội khắc nghiệt đã cướp đi tất cả niềm vui nhỏ bé của lão. Chưa hết tai ương, cơn bão lại cướp đi những hoa màu ít ỏi trong vườn. Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: “Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ. Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!”. Lão sống khốn khổ như vậy mà vợ ông giáo không hiểu lão cho rằng lão sống hà tiện, keo kiệt còn Binh Tư thì cho rằng lão là đồng minh của hắn. Sống đã khổ, đến chết cái khổ cũng không buông tha lão. Lão chọn cái chết khốc liệt, chua chát: tự đầu độc bằng bả chó.

Nên Xem:  Tâm trạng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Khi con tu hú của nhà thơ Tố Hữu

Sống trong khổ đau bất hạnh, nhưng Lão Hạc vẫn sáng lên vẻ đẹp của nhân cách. Tấm lòng của lão Hạc dành cho đứa con trai độc nhất điều khiến mọi người vô cùng xúc động. Thương con lão ước mong cho con hạnh phúc. Dù đói khổ không còn cái ăn nhưng biết con trai không đủ tiền cưới vợ, lão vẫn giữ nguyên vẹn cái vườn cho con. Thương nhớ con lão đã suy nghĩ sâu xa, không thể bán vườn vì lão nghĩ đến tương lai của con. Lão để riêng hoa lợi của khu vườn, dành làm vốn cho con sau này. Lão đã hi sinh tất cả vì con. Trước khi mất, lão gửi mảnh vườn lại cho ông giáo, người hàng xóm thân thiết của lão để khi con trai về giao lại cho con. Lão chết nhưng tấm lòng vẫn hướng về con và mong muốn cuộc sống của con trai mình không gặp cảnh đớn đau như lão. Thương con trai, lão cũng thương cậu Vàng. Lão chăm sóc nó như chăm một đứa trẻ: cho nó ăn cơm bằng bát, lão ăn gì cũng cho nó ăn “lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ”, rồi lão bắt rận, rồi lão tắm cho nó, rồi nựng nịu mắng yêu nó…

Nhưng đến lúc túng quẫn không còn gì để nuôi nó, thậm chí không còn gì để nuôi thân, dự định bán nó đi mà lão đắn đo mãi. Khi bán nó rồi lão khóc vì thương “lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước” và nhất là khi lão xót xa thấy “già bằng ấy tuổi đầu rồi mà còn đánh lừa một con chó”. Lòng thương và nỗi ân hận của lão đối với con Vàng sâu sắc đến mức trở thành nỗi đau khôn lường: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẻo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc: “Khốn nạn ông giáo ơi! Nó có biết gì đâu! Nó cứ làm in như là nó trách tôi: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này đấy à?” Thật là một con người đôn hậu, chất phác! Biết bao người dám lừa bịp và xử tệ với thân nhân, đồng loại không một chút xót thương. Vậy mà lão Hạc, do hoàn cảnh ngặt nghèo vẫn tự trách mình chưa tốt với con chó. Không những thế, lão Hạc còn là một nông dân giàu lòng tự trọng.

Dù sống trong cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn, lão vẫn giữ lòng tự trọng. Lão nghèo nhưng không hèn, không vì miếng ăn mà quỵ lụy kêu xin ai. Tự trọng đến mức không muốn sau khi mình chết còn bị mọi người khinh rẻ. Chẳng còn gì ăn mà lão vẫn không hề đụng tới số tiền dành dụm và đem gửi ông giáo để nếu mình chết thì ông tang ma cho mình: “Con không có nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho được, để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm được mắt”. Là một nông dân sống trong hoàn cảnh ngặt nghèo của xã hội thực dân phong kiến, con người luôn bị cảnh chết chóc đe dọa hàng ngày. Cái chết của lão Hạc đã chứng minh sự trong sạch của lão, đã tố cáo xã hội đen tối thời bấy giờ không thể chấp nhận một con người lương thiện như lão. Sự ra đi của lão Hạc tuy đau đớn, nhưng chẳng khác nào một cánh hạc thanh cao từ bỏ trần gian, bay vút tận trời xanh.

Thông qua nhân vật lão Hạc, nhà văn Nam Cao đã thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của mình. Lão Hạc, nhân vật chính trong truyện, là một nông dân chất phác, đôn hậu, có nhiều nỗi khổ tâm, sống trong cảnh nghèo đói đơn độc nhưng giàu lòng tự trọng và rất mực thương con. Nhờ có những con người cao quý như lão Hạc mà Nam Cao đã chiêm nghiệm: “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”.

Nguồn Internet

hochoi.net - Học Hỏi

Có thể sử dụng ctrl + F để copy code nhanh hơn nhé!