Trang chủ / Văn Mẫu THCS / Văn lớp 8 / Thuyết minh về cây lúa

Thuyết minh về cây lúa

Thuyết minh về cây lúa

Bài làm 1

“Em viết tặng bài ngợi ca cây lúa

Có tình người chan chứa những yêu thương

Tháng mười về mùa gặt mới thơm hương

Rơm vàng óng trên con đường quê mẹ”

Đất nước Việt Nam chúng ta trải qua hớn 2000 năm lịch sử, từ ngàn xưa đến giờ cây lúa là loài cây gắn liền với cuộc sống của con người Việt Nam. Lúa là “quốc thực”, là loài cây mà đã mang đến cho con người nguồn sống từ bao đời. Chúng ta hãy tìm hiểu về cây lúa, để hiểu rõ hơn tầm quan trọng của cây lúa đối với con người Việt Nam ta.

Lúa, ngô, lúa mì, sắn và khoai tây là năm loại cây lương thực chính của thế giới. Cây lúa có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới khu vực Đông Nam Á và Châu Phi, sau này với nhiều hình thức vùa tự nhiên vừa nhân tạo, lúa đã xuất hiện ở những khu vực ôn và hàn đới, nơ có những giống lúa ngon.

Lúa thuộc nhóm các loài cỏ đã thuần dưỡng, sống ở dưới nước, thuộc loại cây 1 lá mầm và tự thụ phấn. Cây lúa có cấu tạo gồm 3 bộ phận là rễ, thân và ngọn.

Bộ rễ của cây lúa thuộc loại rễ chùm. Khi còn trong thời kì mạ, rễ có màu trắng sữa, dài khoảng từ 5 – 6 cm. Đến thời kì sau cấy, rễ tăng dần về số lượng và chiều dài ở thời kì đẻ nhánh làm đòng. Bộ rễ sẽ đạt cấp độ tối đa và trưởng thành vào giai đoạn trổ bông có màu vàng nâu đến nâu và dài khoảng 2 – 3km, rễ đã già có màu đen.

Thuyết minh về cây lúa

Phần thân lúa bao gồm lá lúa, bẹ lúa là thìa và tai lá. Thân lúa thường rỗng, chỉ đặt ở đốt, một đốt khoảng 1 gang tay người tùy giống. Lá dài, có bẹ ôm lấy thân, bẹ lá chính là phần đáy lá kéo dài cuộn thành hình trụ và bao lấy phần non của thân. Phiến lá hẹp, phẳng và dài hơn bẹ lá, còn phần thìa lá là vảy nhỏ và trắng hình tam giác ở mỗi lá lúa. Thân lúa là nơi chống đỡ cơ học cho toàn cây, dự trữ tạm thời các Hydratcacbon trước khi lúa trỗ bông. Lá làm nhiệm vụ quang hợp, chăm sóc hợp lí, dảm bảo cho bộ lá khoẻ, tuổi thọ lá lúa sẽ chắc hạt, năng suất cao.

Phần ngọn lúa, đây là nơi bông lúa sinh trưởng và trở thành hạt lúa. Hoa lúa nhỏ, mọc thành bông, không có cánh hoa, chỉ có vảy nhỏ bao bọc lấy nhị và nhụy. Khi hoa nở, cả bao phấn và đầu nhụy đều thò ra ngoài. Đầu nhụy rất dài, có chùm lông nhỏ dùng để quét hạt phấn. Khi quả khô, có một hạt chứa nhiều tinh bột. ta vẫn thường quen quả của cây lúa là hạt. Thực chất quả lúa chính là lớp cám mỏng áo ngoài hạt lúa, còn vỏ trấu chinh1 là đôi mày bao lấy quả chính thức.

Lúa là loại lương thực có vai trò cực kì quan trọng đối với thế giới chứ không chỉ riêng gì Việt Nam. Sản phẩm chính của cây lúa đối với con người chính là cho hạt. Hạt lúa là loại lương thực chính cảu hầu hết các quốc gia thuộc Châu Á, đặc biệt là Đông Á và Đông Nam Á. Từ hạt lúa, con người đã chế biến nó ra thành hàng ngàn loại thực phẩm khác nhau trên thế giới, góp phần làm cho nền ẩm thực thế giới thêm đa dạng, hấp dẫn. Phần thân lúa sau khi đã thu hoạch được gọi là rạ, được nông dân thu gom giữa đồng và đốt lấy tro, làm phân bón cho vụ mùa sau, hoặc trữ lại cho trâu bò ăn qua mùa đông, hay dùng để trồng nấm, trồng rau hoa.

Trong sản xuất kinh tế, gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Chúng ta đã lai tạo được hơn 30 giống lúa khác nhau và được công nhận là giống lúa quốc gia, nâng lượng giống lúa Việt lên 627 loài khác nhau với những giống lúa nổi tiếng nứt danh như lúa Dứa Thơm 64, lúa Tám Xoan Hải Hậu, lúa Nàng Xuân… Từ một nước đói ăn, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong ba quốc gia xuất khẩu lúa gạo hàng đầu thế giới, cùng với Ấn Độ và Thái Lan. Không chỉ vậy, một lượng lớn rơm rạ đạt chuẩn còn được xuất khẩu sang thị trường Châu Âu và Châu Úc. Cám gạo cũng được chế biến thành thức ăn có nhiều giá trị dinh dưỡng cho ngành chăn nuôi, vỏ trấu là nguồn nguyên liệu sạch cho ngành sản xuất gạch.

Chỉ từ đây có thể thấy được tầm quan trọng của cây lúa đối với quốc gia dân tộc, là nguồn lương thực không thể thiếu trong bữa ăn hằng ngày của gia đình Việt nói riêng và hơn một nửa thế giới nói chung. Dù thời thế phát triền đến giai đoạn kim loại, điện tử tin học thì Việt Nam vẫn tự hào là một quốc gia có nền văn minh bắt đầu từ cây lúa nước.

Bài làm 2

Với lịch sử nông nghiệp lâu dài, cây lúa trở thành biểu tượng văn hóa ẩm thực Việt Nam. Không chỉ là nguồn lương thực quan trọng, cây lúa còn là đấng mày râu của bức tranh nông nghiệp Việt Nam. Từ hình ảnh cánh đồng lúa mênh mông, đến bông lúa trắng ngần chín mọng, tất cả hòa quyện tạo nên vẻ đẹp độc đáo và thơ mộng.

Giữa thế giới hiện đại, cây lúa vẫn giữ vững giá trị truyền thống, là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật và văn thuyết minh. Bài văn thuyết minh về cây lúa không chỉ là một yếu tố giáo dục mà còn là cách tuyệt vời để kể về nét đẹp bình dị của đồng quê, tình yêu quê hương.

Từ quãng đời đầu cây lúa non, mảnh mai và yếu ớt, đến giai đoạn cây lúa trổ bông và làm mẩy, mỗi bước phát triển của cây lúa là hành trình gian khổ, là sự hy sinh của người nông dân. Tuy nhiên, đó cũng là chặng đường đẹp, là niềm tự hào của người làm nông.

Cây lúa không chỉ là nguồn lương thực quan trọng, mà còn là biểu tượng của sự kiên trì, bền bỉ và lòng tự hào dân tộc. Những hạt gạo trắng ngần, dẻo thơm, là kết quả của sự chăm sóc tận tâm, tình yêu thương của người nông dân. Chúng ta cùng nhau tôn vinh cây lúa – người bạn thân thiết, là điểm nhấn tuyệt vời trong văn thuyết minh.

Bài làm 3

‘Cây lúa – hòn ngọc trời ban thưởng, gắn bó với hình ảnh của đất nước Việt Nam. Hạt gạo, những viên ngọc trắng chính là kho tàng quý giá, tượng trưng cho lòng kiên trì, hy sinh của người nông dân. Từ cảnh đồng lúa mênh mông đến hạt lúa chín vàng, mỗi giai đoạn là một hành trình đẹp đẽ, là sự kết nối giữa con người và thiên nhiên.

Cây lúa không chỉ là nguồn lương thực quan trọng, mà còn là đấng mày râu của văn hóa Việt Nam. Bài văn thuyết minh về cây lúa không chỉ là lời ca ngợi sự trưởng thành của cây lúa mà còn là hình ảnh đẹp của tình yêu quê hương, lòng tự hào dân tộc.

Từ ngàn đời nay, cây lúa đã chứng kiến bao thăng trầm của đất nước, là chứng nhân của sự phồn thịnh, thăng tiến. Hình ảnh người nông dân cật lực làm đất, trồng cây lúa là biểu tượng của sự cố gắng, lao động khó nhọc nhưng đầy ý nghĩa. Bài văn thuyết minh này không chỉ là kể về cây lúa mà còn là câu chuyện về những người con của đất đỏ Việt Nam, người nông dân kiên trinh, bền bỉ.

Hình ảnh hoa lúa nhỏ xinh, mọc thành những chùm dài là biểu tượng của sức sống mới, của tình yêu thương mãnh liệt với đất đai. Cảnh đồng lúa chín vàng, bông lúa nằm phía ngọn cây tạo nên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, là điểm nhấn tuyệt vời trong văn thuyết minh. Cây lúa không chỉ là người bạn của người nông dân mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho nghệ sĩ, nhà văn.

Hạt gạo, nền tảng của nền kinh tế nước nhà, không chỉ là thức ăn chính mỗi bữa cơm mà còn là nguồn nguyên liệu quan trọng cho nhiều món ăn ngon, truyền thống. Bánh chưng, bánh giầy là những đại diện tiêu biểu cho sự gắn bó chặt chẽ giữa cây lúa và đời sống tinh thần của người Việt. Những mảnh vườn lúa, những đám đông người nông dân chăm sóc, làm đẹp cây lúa là cảnh đẹp tình thần khó có thể phai nhạt.

Bài văn thuyết minh về cây lúa không chỉ là việc diễn đạt về tính chất sinh học của cây mà còn là sự tôn vinh, khám phá những giá trị văn hóa, tâm linh mà cây lúa mang lại. Người đọc sẽ không chỉ hiểu rõ hơn về đặc điểm, quá trình phát triển của cây lúa mà còn cảm nhận được sự ấm áp, mộc mạc và quý báu của nguồn gốc dân tộc.

Bài làm 4

Mỗi đất nước, mỗi dân tộc đều sở hữu những loại cây đặc trưng, và tại Việt Nam, cây lúa mộc mạc, giản dị đã trở thành biểu tượng gắn bó nhất với lịch sử dân tộc. Đây không chỉ là một loại cây nông nghiệp, mà còn là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật khi mô tả vẻ đẹp của quê hương.

“Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

Cánh cò bay lả rập rờn

Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.”

Cây lúa thuộc họ cây rễ chùm, thích hợp với môi trường ẩm. Quá trình phát triển của cây lúa, từ quá trình chăm sóc đến việc tưới tiêu, đều là những công việc cần mẫn, đòi hỏi sự chăm sóc đặc biệt từ người nông dân. Những bông lúa uốn câu vàng tạo nên cảnh đẹp như thiếu nữ yêu kiều trong bộ cánh xanh non, lá lúa dài thoảng như những lưỡi kiếm, múa lên theo làn gió nhẹ.

Thân lúa mảnh, nhỏ, bảo vệ bên trong như những cánh tay đồng lòng. Khi chín, cây lúa mang bộ cánh màu vàng óng, trở nên quý phái và thơm mùi sữa non. Hương thơm đặc trưng của lúa luôn gắn liền với đất quê, là biểu tượng của lòng chân thành, lao động cần cù, của những tấm lòng hướng về đất đai.

Hạt lúa chín được bọc bởi lớp vỏ trấu vàng ngoài, bên trong là hạt gạo trắng mịn, là thành quả của mồ hôi, công sức và nước mắt của người nông dân. Hạt gạo không chỉ là nguồn lương thực quan trọng mà còn là nguyên liệu chế biến nhiều món ăn truyền thống như bánh, phở, bún.

Cây lúa không chỉ đóng vai trò là cây lương thực chính, mà còn là biểu tượng gắn liền với nền văn hóa Việt Nam. Từ những bức tranh đồng lúa mênh mông, đến những bài thơ, văn xuôi miêu tả vẻ đẹp của cây lúa, đều là những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời.

Cây lúa có nhiều loại khác nhau, phù hợp với từng vùng miền. Thóc nếp, thóc BC, thóc Việt Hương, thóc Tạp Giao, thóc Tám… mỗi loại đều mang đến những giá trị đặc biệt và là nguồn lương thực quan trọng cho người dân.

Cây lúa không chỉ đóng vai trò là nguồn lương thực quan trọng, mà còn là nguồn nguyên liệu cho nhiều sản phẩm chế biến. Hạt gạo trắng ngần là nguyên liệu chính của các loại bánh, cơm cháy ruốc, nước gạo… là những món ăn truyền thống của Việt Nam.

Cây lúa không chỉ là nguồn lương thực, mà còn là biểu tượng của sự hy sinh, cống hiến của người nông dân. Hình ảnh đồng lúa mênh mông, những bông lúa chín óng ả, là biểu tượng của sức sống, của sự cố gắng không ngừng của con người.

Bài làm 5

Với lịch sử văn minh lúa nước lâu dài, Việt Nam tự hào với nghề trồng lúa, đó là thước đo quý giá của giá trị tinh thần và kinh tế. Ngày nay, mặc dù công nghiệp hóa đang phát triển, nhưng nghề trồng lúa vẫn được coi trọng và đầu tư, đánh dấu sự gắn bó với cuộc sống như một lẽ sống quan trọng.

Từ thế hệ này sang thế hệ khác, nghề trồng lúa tại Việt Nam không chỉ là nghề chính mà còn là biểu tượng cho sự liên tục và phát triển. Cây lúa nước, là loại cây lương thực chủ đạo, giữ vững vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, không có cây nào thay thế được vị trí của nó.

Quá trình trồng lúa là công đoạn gian nan, từ việc chọn hạt giống, ủ hạt mạ cho đến khi cấy xuống ruộng. Bàn tay khéo léo và sự tỉ mỉ của người nông dân là chìa khóa để tạo ra những cây lúa mạnh mẽ, khỏe mạnh.

Cây lúa nước càng phát triển, từ mầm non đến cành lúa chín vàng, là quá trình kỳ diệu như sự sinh sôi và lớn lên của con người. Cấy lúa không chỉ là việc gieo xuống ruộng, mà còn là quá trình tương tác với thời tiết, quản lý cẩn thận để đảm bảo mùa màng thịnh vượng.

Nên Xem:  Thuyết minh về một món ăn mẹ làm

Mỗi hạt cơm trắng là thành quả của những đêm trắng, nhiều cơn mưa, và sự cống hiến không ngừng của người nông dân. Cây lúa là biểu tượng của cuộc sống, là nguồn lực sống cho hàng triệu gia đình trên khắp Việt Nam.

Với đủ loại lúa như lúa nếp và lúa tẻ, Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới, là niềm tự hào của người nông dân và cả đất nước.

Bài làm 6

Lúa, một trong năm loại cây lương thực quan trọng nhất trên thế giới, đối với người Việt không chỉ là nguồn thức ăn quý báu mà còn là biểu tượng tinh tế ẩn sau ‘bát cơm’, ‘hạt gạo’.

Việt Nam, với lịch sử nông nghiệp lâu dài, đã từ một nước thiếu lương thực trầm trọng trở thành ngôi đầu xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Ngành trồng lúa góp phần quan trọng trong nền kinh tế, mang lại thành công nổi bật cho đất nước.

Đối với người Việt, cây lúa và hạt gạo (Oryza sativa) là một phần quan trọng trong dinh dưỡng và văn hóa. Ca dao, khẩu ngữ thường nhắc đến cây lúa như ‘Người sống về gạo, cá bạo về nước’, thể hiện sự gắn bó sâu sắc với cuộc sống nông nghiệp.

Cây lúa là biểu tượng của sự sống sót qua hàng nghìn năm lịch sử, từ quá trình ném hạt mộng xuống đồng đến lúc đứng chân vững vàng trên ruộng. Mỗi giai đoạn của cây lúa là hành trình gian nan, nhưng cũng là bí mật tạo nên vẻ đẹp của nông nghiệp.

Trải qua mùa xuân xanh tươi, lúa chuyển sang giai đoạn ‘tròn mình’, ‘đứng cái’ và ‘ôm đòng’. Thách thức của thời tiết, gió lớn, mưa to khiến cây lúa phải vượt qua những khó khăn để trổ hoa, trổ quả. Cuộc sống của cây lúa là hành trình đầy màu sắc, là câu chuyện của những đêm trắng và những ngày bản lĩnh trước thách thức của thiên nhiên.

Cây lúa không chỉ là nguồn cung cấp thức ăn mà còn là người bạn gắn bó, chia sẻ nỗi buồn vui của người nông dân. Bạn đồng hành đáng tin cậy qua những môi trường mới, từ lúc nảy mầm cho đến khi đứng chân và đâm rễ mới.

Người nông dân xưa vốn mộc mạc, đơn giản, vì vậy, cây lúa trở thành một phần của cuộc sống, một giấc mơ xuất hiện liên tục trong giấc ngủ của họ. Đời lúa lặn sâu vào đời người, và ngược lại, cây lúa trở thành biểu tượng của lòng trung thành, sự bền bỉ và gắn bó thân thiết.

Bài làm 7

‘Việt Nam, quê hương ta ơi

Biển lúa trải dài, hùng vĩ hơn bất cứ điều gì’

Từ thời xa xưa, cây lúa đã chiếm vị trí đặc biệt trong cuộc sống vật chất và tinh thần của người Việt. Không chỉ là nguồn dinh dưỡng quan trọng, lúa còn là biểu tượng của làng quê, là nét văn hóa sâu sắc của dân tộc. Vùng Đông Nam Á được coi là quê hương của cây lúa nước.

Từ thời Hùng Vương, người Việt đã biết cấy lúa, nghề trồng lúa truyền đời này sang đời khác, trở thành ngành nông nghiệp chính. Lúa nước, loại lương thực chủ yếu, đặc trưng cho Việt Nam và nhiều quốc gia châu Á, trong khi ở châu Âu, là lúa mì. Cây lúa có thân thảo, lá dạng lưỡi kiếm, gân lá chạy song song, rễ chùm chui sâu vào đất giữ cây chắc chắn.

Ở miền Bắc thường có hai vụ lúa, còn ở miền Nam có tới ba vụ. Quy trình trồng lúa qua nhiều công đoạn: ngâm hạt, gieo mạ, chăm sóc lúa đương thì con gái, chăm sóc lúa đẻ nhánh và thu hoạch lúa. Lúa không chỉ mang lại tinh bột cung cấp năng lượng, mà còn tạo nên những món ăn truyền thống như bánh chưng, bánh giày, cơm nếp, xôi, cốm…

Cây lúa không chỉ là nguồn sống, mà còn là nét đẹp truyền thống của Việt Nam. Dù thế giới thay đổi, những cánh đồng lúa vẫn giữ vững vị thế, là biểu tượng của sự bình yên, là điểm đẹp của quê hương. Ngày nay, giữa những tòa nhà cao ốc, cây lúa vẫn là nguồn cảm hứng bất tận cho người dân Việt Nam, là người bạn thân thiết của người nông dân, và là biểu tượng của vẻ đẹp bình dị.

Bài làm 8

Cây lúa, người bạn tri kỷ, liên kết mật thiết với hành trình lao động của người nông dân Việt Nam. Nếu hoa sen mang đẹp thanh khiết, áo dài thướt tha của người phụ nữ Á Đông, thì cây lúa Việt Nam lại tỏa sáng với nét đẹp dân dã, thân thuộc.

Việt Nam, đất nước xuất khẩu gạo, với ngành nông nghiệp trồng lúa bền vững từ thời xa xưa, bao phủ khắp cánh đồng từ Bắc vào Nam. Đa dạng giống lúa, nghiên cứu nhân giống làm cho nguồn lúa phong phú hơn.

Loại lúa đa dạng theo vùng miền, khí hậu, từng vùng có đặc điểm đất và địa hình riêng, ảnh hưởng đến sự phân bố của lúa. Đối với cây lúa, nước ngọt là yếu tố quyết định, vùng nước mặn như Tây Nguyên, lúa không thích ứng. Thân lúa rộng 2-3 cm, cao 60-80 cm.

Cây lúa chia thành ba bộ phận quan trọng: rễ hút chất dinh dưỡng, thân là cầu nối dẫn dinh dưỡng từ rễ lên ngọn, ngọn là nơi bông lúa sinh trưởng và trở thành hạt lúa. Lúa chín với màu vàng, từ đó người nông dân gặt về, tạo thành hạt gạo. Nông dân trồng nhiều giống lúa phổ biến như lúa nước, lúa tẻ, lúa cạn…

Lúa nếp dùng để làm bánh trưng, bánh nếp, còn lúa tẻ là nguồn thực phẩm chính, đóng vai trò quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của người Việt. Lúa non được làm cốm. Việt Nam, nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới, là thành công của sự lao động, khó nhọc của người nông dân.

Trong suốt quá trình cây lúa phát triển, người nông dân phải chăm sóc đều đặn: từ gieo mạ, cấy mạ, bón phân, tưới tắm, nhổ cỏ đến những ngày khắc nghiệt của đông lạnh, mưa bão, hạn hán. Thăm lúa giúp phát hiện sâu bệnh, bón phân hỗ trợ tốt hơn. Khi cánh đồng chuyển sang màu vàng, người nông dân thu hoạch, hiện đại hóa việc này giảm nhọc nhằn.

Ngày xưa chỉ có hai vụ lúa, chiêm và mùa, nay với sự phát triển, người ta có nhiều vụ mùa liên tục. Quy trình trồng lúa ngày càng phức tạp, từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ, ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân, sâm sấp nước… Đến khi lúa đẻ nhánh, người dân lại phải làm cỏ, bón phân, diệt sâu bệnh.

Cây lúa chính là người bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam, là nguồn lương thực quan trọng, mang lại sự no đủ, và là đẹp tinh thần của Việt Nam. Bằng sự lao động chăm chỉ, người nông dân đã góp phần quan trọng giúp đất nước phồn thịnh, tự hào là Văn Minh Lúa Nước.

Bài làm 9

‘Hạt gạo làng ta

Những trưa tháng sáu

Nước như ai nấu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Mẹ em xuống cấy” (Trích ‘Hạt gạo làng ta’ – Trần Đăng Khoa)

Mỗi chúng ta đều ghi chú về thời thơ ấu qua mái nhà, cây đa, bến nước, và đặc biệt là triền đê lộng gió bên cánh đồng thẳng cánh cò bay. Cây lúa không chỉ là hạt vàng, hạt ngọc của đất trời mang lại sự sống mà từ khi nào đã gắn bó trong nỗi nhớ và niềm thương của người Việt.

Cây lúa xuất hiện từ bao giờ? Có lẽ từ ‘ngày xưa ngày xưa’, khi những bài hát vang lên trên các đường rợ của những người đi thăm đồng. Hoặc có thể từ thuở hồng hoang, Lang Liêu biết trồng lúa để làm bánh vuông tròn cúng Tiên vương. Ngọn lửa nghề trồng lúa đó đã tồn tại từ lâu đời, là giá trị vô song trong lịch sử kéo dài bốn nghìn năm. Dù đất nước thay đổi, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.

Khắp nơi ở Việt Nam, cánh đồng thẳng cánh với cây lúa xanh rì trĩu bông là cảnh quen thuộc. Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là hai khu vực lúa lớn nhất. Lúa nước không chỉ là nghề kiếm sống, mà còn là nền văn hóa của những vùng đất phù sa.

Năm nông dân chia làm hai vụ lúa: vụ chiêm và vụ mùa. Họ chọn hạt giống, ngâm thóc giống, chăm sóc mầm non cho đến khi đưa xuống đất. Công việc này đòi hỏi sự chu đáo, như việc chăm sóc con nhỏ. Sau quãng thời gian đó, cây lúa trĩu bông. Lúa nước có nhiều giống như lúa móng chim, lúa di hương, lúa ba giăng, lúa gié, lúa mộc tuyền…

Nhưng quý nhất là cây lúa tám xoan, lúa dự, mang lại những hạt gạo trắng như ngọc trời, ăn dẻo và thơm. Còn nếp, có lúa nếp cái hoa vàng, thường dùng để làm xôi và cất rượu; nếp rồng, nếp nàng tiên, nếp mỡ… Trâu, cây lúa, cánh đồng từ bao giờ đã trở thành bạn đồng hành của nhà nông, như trong ca dao:

‘Trên đồng cạn, dưới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.’

Trồng lúa là nghề cơ bản của nhà nông. Người nông dân quanh năm làm việc mệt nhọc, dành cả đời để chăm sóc ruộng đồng: cày bừa, cấy hái, tưới tắm, bón phân, làm cỏ, diệt sâu… Với họ, đồng lúa là một mảnh đất nhỏ làm giàu cả cuộc đời.

Miền Nam có mùa khô lúa, miền Bắc lại có mùa đưa giống và cấy lúa. Khi vụ mùa kết thúc, vào tiết lập xuân, người nông dân chọn hạt giống, ngâm thóc giống rồi quăng bùn gieo mạ. Khi cây mạ non cao khoảng mười phân và thời tiết thuận lợi, họ sẽ đưa mạ cấy xuống đồng ruộng đã được cày xới. Công việc giản dị này được thể hiện trong bài hát ru:

‘Mạ non bầm cấy mấy đon

Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.’ (Trích ‘Bầm ơi!’ – Tố Hữu)

Lúa làm cho mọi thứ trở nên sống động. Cơn mưa vàng đầu hè làm cho đồng lúa tốt bời bời:

Lúa chiêm đứng nép đầu bờ

Nghe ba tiếng sấm phất cờ mà lên. (ca dao)

Lúa đứng cây, lúa trổ bông tỏa hương thơm. Hoa lúa màu trắng nõn. Lúa ngậm sữa, lúa uốn câu. Khoảng một nửa tháng sau, đồng lúa ửng vàng rồi chín rộ. Cả cánh đồng lúa mênh mông như một tấm thảm nhung màu vàng khổng lồ.

Thôn xóm rộn ràng với những người hái lúa, tuốt lúa và phơi. Sân nhà đầy thóc và rơm. Nắng vàng, rơm vàng, màu thóc vàng… tất cả như tô điểm cho thôn xóm, tạo nên bức tranh rực rỡ của niềm vui và sự sung túc!

Cây lúa là quý giá vô cùng! Hạt thóc được xay thành hạt gạo trắng ngần. Lớp vỏ trấu thường được sử dụng để nhóm lửa hoặc ủ phân cho cây trái trong vườn. Cám, được thu được khi xát lúa, được sử dụng trong chăn nuôi. Thân cây lúa sau khi gặt được phơi nắng để làm rơm bếp và chổi.

Hạt lúa là hạt vàng, hạt gạo là hạt ngọc. Từ hạt gạo, chúng ta có thể chế biến nhiều món ăn như bánh, bánh đúc, bánh cuốn, bánh đa:

Bánh đúc thiếp đổ ra sàng

Thuận thiếp thiếp bán, thuận chàng chàng mua (ca dao)

Bánh chưng, bánh dày, bánh ú, bánh gai, bánh xèo… Hàng trăm loại bánh, hàng trăm món quà làm từ hạt gạo dẻo và thơm. Ngoài ra, hạt gạo ở một số vùng còn được sử dụng để làm những sản phẩm đặc sản như cốm làng Vòng.

Nâng bông lúa trên tay, ta càng mến yêu và trân trọng hơn! Màu xanh của lá lúa là màu xanh của sự sống, là sự trường tồn mãi mãi như câu ca dao xưa:

‘Khi nào cây lúa còn bông

Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.’ (ca dao)

Bài làm 10

Khi nhắc đến Việt Nam, chúng ta thường liên tưởng đến những địa danh nổi tiếng như vịnh Hạ Long, hồ Hoàn Kiếm với truyền thuyết trả gươm thần, hay những đặc sản như lụa tơ tằm, nón Bài thơ. Tuy nhiên, điều làm du khách quốc tế thích thú nhất có lẽ là thú vui ẩm thực: phở, bún chả, hay những chiếc bánh chưng, bánh giầy vào dịp Tết. Điều dễ nhận biết là những món ngon đó đều xuất phát từ hạt gạo. Hạt trắng ấy là sản phẩm của cây lúa – một người bạn không thể thiếu trong cuộc sống của người Việt Nam.

Để có cây lúa, những người nông dân phải lao động vất vả hàng ngày: gieo mạ, cấy mạ, sau đó là chăm sóc, vun xới cho cây. Lúa thường được trồng ở những vùng đồng bằng châu thổ, nơi có đất phù sa phong phú. Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Bắc Bộ là hai điểm nổi tiếng với nghề trồng lúa lớn nhất tại Việt Nam. Nhưng không chỉ giới hạn ở đây, cây lúa còn mọc trên những ruộng bậc thang xanh mướt của vùng cao.

Nên Xem:  Trong nhà em có ba phương tiện giao thông: Xe đạp, xe máy và ô tô. Chúng cãi nhau, so bì hơn thua kịch liệt. Em hãy tưởng tượng và kể lại cuộc cãi nhau đó.

Cây lúa thích hợp với khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam, thích ứng với hai mùa chính: mùa mưa và mùa khô. Đa số người nông dân đều phụ thuộc vào cây lúa. Đây là một hình thức nông nghiệp phổ biến và phổ quát tại Việt Nam. Cây lúa đã đưa Việt Nam từ tình trạng nghèo đói sau chiến tranh lên thành một quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Mặc dù là cây nông nghiệp, nhưng cây lúa không chỉ đơn thuần là nguồn cung cấp thức ăn chính mà còn là một phần quan trọng trong đời sống người Việt Nam.

Câu hỏi đặt ra ở đây là: Tại sao cây lúa lại đóng một vai trò quan trọng đến như vậy trong đời sống Việt Nam? Câu trả lời là rõ ràng, cây lúa và hạt gạo đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống và văn hóa của người Việt Nam. Cây lúa không chỉ là một loại cây nông nghiệp, mà còn là nguồn thực phẩm chủ yếu cung cấp cho con người. Đôi khi, để thay đổi khẩu vị, con người tìm đến những món ăn như phở, bún, đó là cách biến tấu gạo một cách sáng tạo.

Ở những vùng quê, thậm chí là ở thành thị, chúng ta vẫn quen với tiếng rao quen thuộc: Ai bánh chưng, bánh nếp, bánh giầy, bánh khoai nào! Những chiếc bánh thơm ngon ấy cũng được làm từ hạt gạo. Đặc biệt là gạo nếp, có nhiều ứng dụng trong làm bánh và làm đặc sản tại một số vùng miền như cốm làng Vòng.

Vậy cây lúa không chỉ là cây cung cấp thức ăn, mà còn đóng vai trò trong việc tạo ra những nguồn nguyên liệu quan trọng khác. Khi lúa chín, người ta gặt và tuốt lúa, thu được gạo và vỏ trấu màu vàng nhạt. Vỏ trấu thường được sử dụng để đốt lửa hoặc ủ phân cho cây trồng. Giữa vỏ trấu và hạt gạo là lớp vỏ dinh dưỡng, sau khi xát lúa, người ta thu được cám, rất hữu ích trong chăn nuôi.

Phần thân cây lúa sau khi gặt không phải là thừa. Nó được phơi khô và chất thành đống rơm cao ngất. Rơm không chỉ làm nhiên liệu đốt, mà còn được sử dụng trong trồng nấm và làm thức ăn cho gia cầm. Đặc biệt, rơm còn được dùng để làm nền nhà và làm vật liệu xây dựng nhờ tính nhẹ và cách nhiệt.

Với những công dụng đa dạng như vậy, cây lúa trở thành một người bạn thân thiết, gắn bó với người dân Việt Nam trong mọi khía cạnh của cuộc sống: từ sản xuất đến sinh hoạt hàng ngày. Cây lúa không chỉ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế mà còn mang giá trị văn hoá sâu sắc.

Được xem là biểu tượng của Việt Nam, cây lúa không chỉ là cây nông nghiệp, mà còn là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn hóa. Trần Đăng Khoa đã sáng tác một bài thơ được phổ nhạc thành bài hát (Hạt gạo làng ta):

‘Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hổ nước đầy

Có lời mẹ hát

Ngọt bùi hôm nay’…

Những lời ca trong trẻo của bài hát thể hiện tình cảm với hạt gạo trắng thơm. Cây lúa và hạt gạo là kết quả của công sức lao động và sự hòa quyện của nhiều hương vị: vị phù sa, hương sen thơm, lời mẹ hát… Những đặc tính đó thể hiện tính cách của con người Việt Nam: sống vất vả nhưng trân trọng giá trị của lúa gạo.

Ngoài ra, cây lúa còn làm tăng vẻ đẹp tự nhiên của quê hương:

‘Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát

Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông.’ (ca dao)

Câu ca dao đã tả đẹp của Việt Nam với những cánh đồng lúa bát ngát mênh mông. Cảnh đẹp của lúa đã in sâu trong tâm trí những người con xa quê. Cây lúa không chỉ là biểu tượng, mà còn là nguồn cảm hứng vô tận cho nền văn hóa Việt Nam.

Vậy nên, cây lúa không chỉ đơn thuần là nguồn thức ăn mà còn là nguồn cảm hứng và niềm tự hào của người Việt Nam. Mỗi bữa cơm là một dịp để nhớ về quê hương, về những người lao động, về cây lúa và hạt gạo trắng tinh khôi.

Nếu được chọn lựa, chắc chắn mọi người Việt vẫn sẽ chọn cây lúa là biểu tượng của đất nước, là niềm tự hào về một Việt Nam phồn thịnh, văn minh và gắn bó với giá trị truyền thống.

Bài làm 11

“Hòa mình vào bài ca ca ngợi cây lúa và những người trồng lúa vì quê hương. Quê hương ơi, vẻ đẹp của ngày gặt và đồng lúa hẹn ước. Tình yêu nảy nở từ đôi mắt, ngày mai bắt đầu từ hôm nay”. Suốt thời gian, cánh đồng lúa xanh biếc vô tận, bên cạnh cò trắng phau phau và con trâu, lũy tre làng xanh ngắt đã trở thành hình ảnh quen thuộc, biểu tượng của nông thôn Việt Nam, thậm chí là biểu tượng của cả một đất nước với những con người anh hùng.

Cây lúa Việt Nam đóng góp một vai trò to lớn, không chỉ trong đời sống vật chất mà còn trong đời sống tinh thần của nhân dân từ thời các vua Hùng dựng nước, cho đến ngày nay giá trị ấy vẫn trọn vẹn không suy giảm.

Lúa, một loài cây có nguồn gốc từ loài lúa nước, xuất phát từ Đông Nam Á. Khoảng 10000 năm trước, nó đã trở thành nguồn lương thực chính cho nhiều quốc gia trên thế giới. Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước, là trung tâm nông nghiệp đầu tiên của thế giới loài người với sự phát triển mạnh mẽ của cây lúa, tạo ra nguồn lương thực dồi dào.

Tên khoa học của lúa nước là Oryza sativa thuộc họ Lúa (Poaceae), thường được gọi đơn giản là lúa hoặc lúa nước ở Việt Nam. Lúa nước phân bố chủ yếu ở Đồng bằng Sông Hồng và Đồng bằng Sông Cửu Long, cũng như một số đồng bằng nhỏ hẹp ở vùng duyên hải miền trung và các tỉnh miền núi phía Bắc với ruộng bậc thang độc đáo.

Lúa nước có thể chia thành 2 loại dựa vào hàm lượng amilopectin trong hạt gạo. Lúa tẻ có amilopectin chiếm khoảng 80%, trong khi lúa nếp thường cao hơn 90%, làm cho gạo nếp ăn dẻo và dính hơn. Người ta cũng chia thành nhiều giống khác nhau dựa vào các đặc tính sinh học như hình dáng cây, hạt và khả năng chống chịu bệnh tật trong quá trình lai tạo.

Ý nghĩa của cây lúa chủ yếu xuất phát từ sự gắn bó lâu dài của nó với đời sống nhân dân, trở thành biểu tượng của nông thôn Việt Nam. Cây lúa nước liên tưởng đến hình ảnh người nông dân chăm chỉ, chịu khó trong lao động, không ngần ngại mưa gió. Đồng thời, nó còn là biểu tượng của sự ấm no, cơm gạo đủ đầy.

Cây lúa không chỉ đánh dấu sự nghèo khó trong cuộc sống của người nông dân mà còn là đại diện cho nền văn minh lúa nước có lịch sử lâu dài ở Việt Nam và Đông Nam Á. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ, cây lúa luôn gắn liền với hình ảnh hậu phương vững chắc và là biểu tượng cho sự xây dựng đất nước sau chiến tranh, với mục tiêu phát triển nông nghiệp làm gốc của Đảng và nhà nước.

Chính những ý nghĩa biểu tượng sâu sắc này khiến cây lúa thường xuất hiện trong nghệ thuật và văn học dân gian. Bài hát ‘Hát về cây lúa hôm nay’ của nhạc sĩ Hoàng Vân và bài thơ ‘Hạt gạo làng ta’ của nhà thơ Trần Đăng Khoa là những tác phẩm nổi tiếng, tôn vinh cây lúa và tinh thần xây dựng đất nước.

Về hình dáng, cây lúa có thân mầm, rễ chùm, cao khoảng 70-90 cm, thân cây hình ống rỗng, lá mỏng, hẹp và dài, màu xanh non khi chưa chín và chuyển sang màu vàng sậm khi chín. Bông lúa có màu xanh lá mạ dài khoảng 35-50 cm, phát triển thành chùm quả với hơn 20 chùm quả đong đưa. Hạt lúa dài 5-12 mm, dày 1-2mm. Lúa là loài cây thân thảo, sống 1 năm, thường được thu hoạch sau 4-5 tháng.

Vụ lúa thường được chia thành nhiều đợt tùy thuộc vào khí hậu và địa hình ở từng khu vực. Gieo mạ là phương pháp nhân giống phổ biến, với việc nhổ cây lúa 5-7 lá ra ruộng cấy khi cây đã phát triển ổn định. Dẫn nước vào ruộng và duy trì mực nước từ 1-3 cm là những bước quan trọng. Trước khi thu hoạch 10 ngày, tháo cạn nước để mặt ruộng khô, thuận lợi cho quá trình thu hoạch.

Lúa gạo đóng vai trò quan trọng trong chế độ dinh dưỡng của nhân dân Việt Nam và cung cấp lương thực cho khoảng 65% dân số thế giới. Nó là nguồn thực phẩm giàu tinh bột, chiếm đến 80% thành phần, là nguồn năng lượng chính cho cơ thể con người. Gạo cũng là nguyên liệu chính để sản xuất nhiều sản phẩm khác như bánh, bún, phở, mì gói, và cả trong nghệ thuật nấu rượu truyền thống. Sản phẩm phụ như cám, trấu, tấm, rơm rạ cũng đóng góp không nhỏ vào các ngành công nghiệp sản xuất và chăn nuôi.

Trong kinh tế, gạo là loại hàng hóa xuất khẩu nhiều nhất của Việt Nam, đứng thứ hai thế giới sau Thái Lan với khoảng 6 triệu tấn/năm, đóng góp lớn vào sự phát triển của nền nông nghiệp và tổng GDP của đất nước.

Cây lúa mãi mãi là một phần sâu sắc trong tiềm thức và cuộc sống của người Việt Nam. Mỗi khi quay về quê, hình ảnh những cánh đồng lúa bát ngát với hương thơm thoang thoảng làm tôi lưu luyến. Dù là 10 năm trước hay 10 năm sau, có vẻ như ấn tượng của tôi về quê hương vẫn chủ yếu là hình ảnh cây lúa và người nông dân chăm sóc chúng, từ mùa gieo mạ đến mùa gặt lúa, trên những con đường rợp rơm và thóc lúa rực rỡ.

Bài làm 12

Đứng giữa cánh đồng bát ngát, làn gió nhẹ của quê hương ùa về, tôi trầm mình để hòa mình vào hương thơm dịu dàng của đất trời. Một giọng lúa nhẹ nhàng như tâm tư bày tỏ: “Xin chào bạn! Bạn đã hiểu về cuộc sống của chúng tôi lúa nước chưa? Tôi sẽ kể cho bạn nghe”.

Giọng lúa, như một câu chuyện, tựa tựa. Tổ tiên của tôi xuất phát từ thời xa xưa, được con người khám phá và biến đổi nên giống lúa nước ngày nay. Gia đình tôi đa dạng, có cả lúa BC, lúa bắc thơm, nếp cẩm, nếp cái… Giống lúa Mộc Tuyền ngày xưa phổ biến, cây lúa cao ngang đầu người nhưng hạt chưa đạt năng suất cao nên bà con nông dân ít trồng.

Chúng tôi là những giống lúa mới được nhà khoa học Lương Đình Của nghiên cứu biến đổi gen, tăng cường sức đề kháng và nâng cao chất lượng. Bạn nhìn đây, chúng tôi thuộc loại thân cỏ mềm, nên chúng tôi sống gần nhau, tựa nhau để gió không thể đánh gãy chúng.

Cây lúa của chúng tôi thuộc dạng rễ chùm, đứng vững trên ruộng màu mỡ. Cây lúa trưởng thành cao khoảng 70-80 cm và có hệ rễ dài tới 625 km. Những lá cây dài, lớp lông trải khắp bề mặt như những chiếc gươm rực sáng trong gió.

Tôi sẽ kể cho bạn về cuộc sống của chúng tôi. Ở miền Bắc, chúng tôi được trồng theo hai vụ: vụ chiêm và vụ mùa. Vụ chiêm kéo dài từ tháng giêng đến tháng sáu, vụ mùa từ tháng bảy đến tháng mười một. Thời gian còn lại là để ruộng nghỉ ngơi, chuẩn bị cho vụ năm sau. Khi chúng tôi là hạt mầy, tròn trịa, người nông dân gieo chúng tôi trên lớp bùn mịn, được che phủ kỹ lưỡng, cung cấp đầy đủ dinh dưỡng để từng hạt nảy mầm xanh tốt.

Lúc đó, chúng tôi được gọi là mầm. Mầm được đưa ra ruộng cấy, khi ấy chúng tôi trở thành lúa. Sự sống trong môi trường đặc biệt hơn, như bạn đã biết, nghề nông phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Như câu ca dao thường nói:

Lúa chiêm lấp ló đầu bờ

Nghe ba tiếng sấm phất cờ mà lên

Tôi nghe gió kể, thấy lúa nước chúng tôi vẫn thích ứng với điều kiện khắc nghiệt của ruộng bậc thang, hay dọc theo đất miền Trung, nơi có thể mưa bão khiến bà con gặp khó khăn. Bạn có biết không, chỉ sau một tháng trên ruộng, chúng tôi đã bắt đầu độ thì, như một bước ngoặt trong quá trình trưởng thành. Lúc ấy, cánh đồng tràn đầy sức sống, xanh tươi, đó là thời kỳ chúng tôi trưởng thành. Trong giai đoạn này, bà con nông dân thường xuyên kiểm tra ruộng để phòng tránh các bệnh tật nguy hiểm như bạc lá hay khô vằn. Công việc nặng nhọc, đòi hỏi sự chăm chỉ, vì bà con thường xuyên cắt cỏ, diệt sâu trên lá. Như một câu ca dao nói:

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần

Nên Xem:  Kể về một việc mà em làm khiến cho bố mẹ tự hào

Khi hạt thóc chúng tôi chuyển sang màu vàng rực, máy gặt được mang về. Những bó lúa trĩu nặng, hạt tròn mẩy là thành quả cho công sức miệt mài của người lao động. Sau khi lúa được gặt, chỉ còn lại trên cánh đồng những bụi rạ cao thẳng. Chúng tôi liên kết cả cuộc đời với những người nông dân.

Chúng tôi sống và đóng góp cho cuộc sống, bạn ạ. Nhờ những hạt thóc nhỏ, nước ta trở thành quốc gia xuất khẩu lúa gạo hàng đầu trên thế giới. Hạt ngọc thực sự làm cho cuộc sống của nhân dân thêm no đủ. Nhìn thấy những đứa trẻ học trò lớn lên, chúng tôi cảm thấy hạnh phúc về đóng góp của mình.

Mặt trời lặn về phía tây, tôi chào tạm biệt bạn lúa. Đi bên triền đê lộng gió trở về làng, tôi nhìn ra xa hơn, cả cánh đồng vẫn tự do với gió, trò chuyện đầy hương vị. Qua câu chuyện ngắn về lúa, tôi hiểu rõ hơn về cây lúa thân thương này.

Bài làm 13

Việt Nam, đất nước thân yêu

Biển lúa bát ngát, hùng vĩ hơn cả bức tranh trời. (Ca dao)

Những dòng ca dao như những lá lúa nhẹ nhàng, đã đắm chìm trong trái tim của hàng triệu con người Việt Nam, mỗi khi họ nhìn về những cánh đồng lúa xanh mướt. Cây lúa, biểu tượng của sự đơn giản, bình dị, tô điểm cho bức tranh về làng quê Việt Nam.

Cây lúa là một trong năm loại cây lương thực quan trọng trên thế giới và là cây chủ đạo tại Việt Nam. Cây lúa có nguồn gốc từ khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới Đông Nam Á và châu Phi. Nó còn là loại cây thủy sinh, sống chủ yếu trong môi trường nước. Với sự phát triển nhanh chóng dưới điều kiện khí hậu Việt Nam, cây lúa trở thành biểu tượng của vùng đất này. 

Cây lúa cao khoảng 1-1.8 mét, rễ chùm vững chắc để hút dưỡng chất. Thân cây hình rỗng bên trong, thường được sử dụng làm kèn, âm thanh vui tai, giúp xua đi cái nóng mùa hè. Lá cây mảnh mai mọc quanh thân, thay đổi màu sắc theo mùa. Đến mùa thu hoạch, lá chuyển sang màu vàng, tô điểm cho cánh đồng xanh bình dị. Bông lúa dài, chứa nhiều hạt lúa, là kết quả của sự cần cù, chăm sóc của người nông dân.

Ở Việt Nam, có hai vụ lúa chính: chiêm (thu hoạch tháng 5-6) và mùa (thu hoạch tháng 8-9). Quá trình phát triển của cây lúa phức tạp, từ việc chọn giống, ủ giống, gieo mầm đến chăm sóc và thu hoạch. Những người nông dân phải làm việc chăm chỉ, bón phân, bảo vệ cây lúa khỏi sâu bệnh. Điều này đòi hỏi sự đầu tư công sức, nhưng nhân dân Việt Nam thường nói:

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần

Cây lúa không chỉ là nguồn lương thực hàng ngày, mà còn là biểu tượng văn hóa lâu dài của Việt Nam. Từ thời xa xưa, cây lúa đã được tôn vinh qua các bài hát, truyền thống như bánh kính của Lang Liêu. Ngày nay, nước ta là xuất khẩu lúa gạo hàng đầu thế giới, chứng minh vai trò quan trọng của cây lúa trong xây dựng đất nước.

Bài làm 14

Vietnam, quê hương tươi đẹp, nằm bên bờ biển dịu dàng, với những con sông êm đềm và đất đỏ mịn màng, nơi nông nghiệp lúa nước không chỉ là nghề nghiệp, mà còn là nguồn sinh kế quan trọng, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về xuất khẩu gạo.

Cây lúa nước tại Việt Nam thuộc giống lúa châu Á, và đến nay, nguồn gốc của nó vẫn là một bí ẩn mà các nhà nghiên cứu đang khám phá. Những nền văn minh lúa nước đầu tiên như Ấn Độ, Trung Quốc được xem là nơi cây lúa nước Việt Nam bắt nguồn.

Cây lúa nước mọc trong môi trường nước ngọt, được phát triển chủ yếu ở Đồng Bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Cây lúa có đường kính từ 2 – 3cm, cao khoảng 60 – 80cm. Thân lúa được chia thành ba phần chính: rễ cây, thân cây và ngọn cây. Rễ cây chịu trách nhiệm hấp thụ chất dinh dưỡng và nước từ đất, thân cây vận chuyển chất và thực hiện quá trình trao đổi chất để hỗ trợ sự phát triển của cây.

Từ ngọn cây, cây lúa nảy mầm, tạo ra những hạt lúa. Hạt lúa trắng nổi bật, với lớp vỏ trấu cứng bảo vệ bên ngoài, cám gạo bảo vệ lớp mỏng che phủ hạt gạo, bên trong là hạt gạo trắng ngần. Khi hạt lúa chín đủ, người ta thu hoạch cây lúa, sau đó tuốt lúa để có hạt gạo hoàn chỉnh.

Vụ mùa lúa ở Việt Nam có hai mùa chính: đông – xuân và hè – thu. Khi mùa đến, nông dân bắt đầu làm đất, cày xới để làm cho đất mềm mại, dẫn nước từ nguồn vào ruộng lúa để cung cấp nước cho sự phát triển của cây, nhổ cỏ dại, loại bỏ gốc rạ còn lại từ mùa lúa trước. Nước là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong quá trình gieo trồng lúa. Sau khi gieo mạ, lúa bắt đầu đâm chồi.

Quá trình gieo mạ phải được thực hiện bằng tay, với mật độ vừa phải, theo hàng ngang, hàng dọc. Tiếp theo là việc bón phân, cải tạo đất để kích thích sự phát triển của cây lúa. Một cây lúa mạnh mẽ không chỉ phụ thuộc vào giống lúa, mà còn tùy thuộc vào cách chăm sóc, việc bón tưới phải phù hợp với mục đích và tình trạng của đất. Trong suốt mùa lúa, nông dân phải liên tục bổ sung nước, làm cỏ, diệt sâu bệnh, loại bỏ loài gặm nhấm, chim chóc gây hại đến mùa màng. Lúa có thể thu hoạch bằng tay hoặc máy, sau đó tuốt lúa để lấy hạt và để lại rơm, rạ.

Cây lúa tạo ra hạt gạo, là nguồn thực phẩm chính cho người dân Việt Nam. Từ hạt gạo, chúng ta có thể nấu cơm, xay thành bột để làm các loại bánh truyền thống. Hạt gạo cũng được sử dụng để làm bánh đa, phở, bún và nhiều sản phẩm khác.

Hầu hết mọi bộ phận của cây lúa đều có thể sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Vỏ trấu ngoại cảm có thể làm thức ăn cho gia cầm, dùng để ủ ấm cho ổ gà, ổ vịt, hoặc ủ thành phân bón cho cây trồng. Phần thân cây sau khi đã tróc hết hạt lúa có thể sử dụng làm rơm, rạ đốt để nấu nướng hoặc sưởi ấm. Rơm, rạ từ thân cây còn có thể được đan, bện, tết thành chổi, rễ và các vật trang trí khác.

Đối với kinh tế, Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp điển hình, với diện tích nông thôn chiếm ưu thế so với đô thị. Ngành nông nghiệp lúa nước đóng góp vào kinh tế Việt Nam thông qua xuất khẩu gạo, đồng thời cung cấp nguồn thu nhập chính cho nông dân và đáp ứng nhu cầu thực phẩm của người dân trong nước.

Về mặt tinh thần, cây lúa là biểu tượng của đất nước Việt Nam, liên kết chặt chẽ với cuộc sống hàng ngày của những người dân. Hình ảnh cây lúa xuất hiện trên quốc huy Việt Nam với ý nghĩa là nòng cốt phát triển. Trong thơ ca và nhạc họa, hình ảnh cây lúa gắn liền với tuổi thơ của nhiều người, như bài thơ ‘Hạt gạo làng ta’ của Trần Đăng Khoa hay các câu ca dao tục ngữ quen thuộc:

Trời mưa cho lúa thêm bông

Cho đồng thêm cá, cho sông thêm thuyền.

Cây lúa mang giá trị về cả vật chất và tinh thần. Hình ảnh của cây lúa liên tục hiện diện trong đời sống của nhân dân Việt Nam. Trong bối cảnh cơ cấu kinh tế hiện đại, cây lúa vẫn giữ vững vị thế là nguồn kinh tế quan trọng của đất nước, đồng thời tạo ra cơ hội việc làm cho đa số dân cư.

Bài làm 15

Xin chào các bạn, tôi là một cây lúa xinh đẹp của đất nước Việt Nam. Tôi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, trở thành nguồn lương thực không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của mọi người. Hãy để tôi kể cho bạn nghe về cuộc sống của gia đình lúa nhỏ của chúng tôi.

Tôi có nguồn gốc từ một loài cây dại mọc ở ven sông, sau đó con người đã đưa chúng tôi về nuôi cấy và lai tạo để tạo ra giống lúa ngày nay. Cũng có những tài liệu cho rằng tổ tiên của chúng tôi là những cây dại mọc ở Đông Nam Á và Ấn Độ. Gia đình lúa của chúng tôi thuộc lớp hai lá mầm, có thân cỏ và rễ chùm. Cuộc sống của chúng tôi phát triển theo vòng tuần hoàn khép kín.

Bắt đầu từ những hạt thóc nhỏ bé, chúng tôi trải qua quá trình ngâm ủ cẩn thận dưới bàn tay tài năng của những người nông dân. Sau đó, chúng tôi nảy mầm và trở thành những cây mạ con. Dưới sự chăm sóc của những người nông dân, chúng tôi lớn lên, ra hoa và thu hoạch. Mỗi giai đoạn đều đòi hỏi sự chăm sóc và quy trình khép kín.

Giai đoạn chọn giống đòi hỏi sự kiên trì của những người nông dân. Họ phải chọn lấy từng hạt giống tốt nhất, loại bỏ những hạt bệnh và sâu bệnh trước khi ngâm ủ. Quá trình này khá khắt khe, đòi hỏi tuân thủ đúng quy định về nhiệt độ và độ thoáng khí để chúng tôi có cơ hội nảy mầm.

Sau thời gian ngâm từ mười đến hai mươi ngày, chúng tôi được đưa ra những thửa ruộng đã được cày tơi xốp. Đây là giai đoạn chúng tôi trở thành những cây mạ cao lớn. Giai đoạn sau đó là giai đoạn con gái, với lá cây cứng và đanh hơn. Cánh đồng lúa trở thành một dải lụa xanh, êm đềm và tĩnh lặng.

Trong giai đoạn này, chúng tôi cần sự chăm sóc đặc biệt. Những người nông dân phải theo dõi chúng tôi, bón phân và bắt sâu để đảm bảo sức khỏe của chúng tôi. Thân cây chúng tôi bắt đầu tách ra và lộ ra những chiếc đòng đòng cứ nhô cao mãi cho đến khi vững lá mới.

Dưới ánh nắng mặt trời, những bông lúa bắt đầu chuyển sang màu vàng ươm. Những người nông dân thu hoạch chúng tôi để có những hạt thóc căng tròn, và chúng tôi trở thành nguồn cung cấp lương thực và xuất khẩu gạo quan trọng. Những bác nông dân cũng là những người giữ gìn và tôn trọng gia đình lúa nhỏ của chúng tôi.

Chúng tôi không chỉ là những cây lúa nhỏ bé mà còn đóng góp vào ngành kinh tế và văn hóa của quê hương. Những loại bánh truyền thống và các sản phẩm từ lúa như bánh trưng, bánh nếp đều được làm từ chúng tôi. Hãy trân trọng chúng tôi, vì chúng tôi là minh chứng cho sự cần cù và tần tảo của người nông dân Việt Nam.

Bài làm 16

“Bên cạnh bề rộng trời cao
Giọng hát hò vang, đồng lúa khoe sắc
Cá tươi, gạo trắng, nước trong là
Lúa chín thơm, tình quê nồng như ngày nào.”

Những dòng thơ trên chứa đựng tâm huyết về tình yêu quê hương, với cánh đồng lúa bao la, hương lúa nồng nàn tình người. Cây lúa, biểu tượng của quê hương Việt Nam, kết nối mỗi con người với hình ảnh đồng lúa mênh mang. Cây lúa không chỉ là biểu tượng, mà còn là nguồn lương thực quan trọng của Việt Nam và nhiều nước châu Á.

Hình ảnh cây lúa và con trâu là biểu tượng gần gũi, bình dị mà đã in sâu vào tiềm thức người Việt. Cây lúa là đồng bào nông dân chân lấm tay bùn qua hàng thế kỷ. Là nước nông nghiệp, lúa đóng vai trò chủ đạo trong nguồn lương thực ở Việt Nam.

Ở châu Á, lúa chiếm vị trí quan trọng trong năm loại cây lương thực, và ở Việt Nam, lúa là cây trồng nông nghiệp quan trọng đem lại thu nhập cho người nông dân. Lúa thuộc loại cây ngũ cốc.

Cây lúa có thân mềm, lá dài mềm, và cây thường cao khoảng 50cm. Để có những hạt gạo trắng tinh, người nông dân cần chăm sóc cẩn thận. Lúa có thời gian sinh trưởng ngắn, thường có bộ rễ chùm. Người nông dân trồng lúa thẳng hàng, tạo nên bức tranh bình dị, thơ mộng cho cánh đồng lúa.

Cây lúa có màu lá xanh và vàng tùy giai đoạn sinh trưởng. Khi chín, bông lúa tỏa hương thơm đặc biệt, tạo nên không gian trong lành và thuần khiết. Hạt thóc sau khi thu hoạch được sử dụng để sản xuất gạo, còn phụ phẩm như trấu và cám có nhiều công dụng khác nhau.

Để trồng cây lúa, người nông dân chọn hạt thóc chắc mẩy và chăm sóc cẩn thận. Cây lúa trưởng thành sau quá trình chăm sóc kỹ lưỡng, và đóng vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi người nông dân Việt Nam. Cây lúa không chỉ cung cấp lương thực mà còn đóng góp vào xuất khẩu, góp phần phát triển kinh tế của đất nước.

hochoi.net - Học Hỏi

Có thể sử dụng ctrl + F để copy code nhanh hơn nhé!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *