Trang chủ / Văn Mẫu THCS / Văn lớp 8 / Thuyết minh về một danh lam, thắng cảnh hoặc một di tích ở địa phương

Thuyết minh về một danh lam, thắng cảnh hoặc một di tích ở địa phương

Đề bài: Thuyết minh về một danh lam, thắng cảnh hoặc một di tích ở địa phương

Em đang suy nghĩ vì chưa biết phải chuẩn bị bài văn Thuyết minh một danh lam thắng cảnhhoặc một di tích ở địa phương như thế nào để làm cho nó hấp dẫn và thuyết phục người đọc. Hãy tham khảo những bài văn mẫu để học hỏi cách sử dụng từ ngữ và cách đặt câu sao cho hấp dẫn và chính xác.

Bài làm 1

Có ý kiến cho rằng: Trong nền văn hóa cổ nước ta có rất nhiều viên ngọc bị che lấp bởi lớp bụi thời gian mà nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm tòi, bảo vệ cho nó sáng mãi. Khu di tích lịch sử văn hóa chùa Dâu là một viên ngọc như thế.

Xây dựng từ những năm đầu Công nguyên, chùa Dâu lại mang một giá trị đặc biệt của trung tâm truyền giáo đạo Phật đầu tiên ở nước ta.
Chùa Dâu nay thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xưa thuộc Tống Khương, huyện Luy Lâu, quận Giao Chỉ. Từ xa xưa người dân nơi đây thường sống bằng nghề trồng dâu nuôi tằm, dân gian vẫn thường gọi là vùng dâu hoặc kẻ dâu. Chất mộc mạc thôn dã và giản dị nơi đây đã góp phần không nhỏ tạo lên nét đẹp dân gian tự nhiên của chùa.

Khoảng đầu Công nguyên một số nhà sư từ Ấn Độ đi theo đường biển vào Luy lâu để truyền đạo. Nhanh chóng chùa đã trở thành một trung tâm truyền giáo đạo Phật đầu tiên để từ đây lan rộng sang Lạc Dương (Trung Quốc) và một số nơi khác. Bấy nhiêu thôi cũng đã đủ làm cho chúng ta tự hào và trân trọng bởi ý nghĩa của giá trị văn hóa nơi đây. Nhưng không dừng lại ở đó, chùa còn đào tạo được 500 vị tăng ni, dịch được 15 bộ kinh, làm được hàng chục bảo tháp có các vị cao tăng nổi tiếng đã đến đây trụ trì như Mâu Bát, Pháp Hiền, Chi Y Cương Nương, Khâu Đà La…

Ban đầu chùa Dâu chỉ là một cái am nhỏ, sau phát triển lên thành một ngôi chùa với tên gọi đầu tiên là Cổ Châu tự (nghĩa là một viên ngọc quý). Đến thế kỷ thứ II sau Công nguyên (khoảng 187-226, thời Sỹ Nhiếp) hệ tư pháp được ra đời chùa Dâu thời bà Pháp Vân nên gọi là Pháp Vân tự. Vào thế kỷ XIV (1313), có thể nói đây là đợt hưng công lớn nhất. Dưới đời vua Trần Nhân Tông, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đã cho xây lên chùa to lớn như ngày nay: Chùa có hàng trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp mà bao đời nay khách từ muôn phương vẫn về đây chiêm ngưỡng. Hành động ấy, việc làm ấy của ông cha ta thời xưa đã thể hiện ý thức dân tộc, sự tôn trọng, đề cao văn hóa, bản sắc dân tộc. Chùa Dâu được coi là nơi rất thiêng liêng nên đã có lần chùa được gọi là Diên Ứng tự (tức cầu gì được nấy). Điều đó đã được minh chứng qua các đời vua của triều đại xa xưa cũng từng về chùa Dâu như vua Lý Thánh Tông cầu tự (tức cầu con) và gặp được nguyên phi Ỷ Lan khi đi thuyền trên sông Dâu. Năm Đinh Tị 1737 có rất nhiều vua chúa cung tần mĩ nữ qua lại lễ Phật cầu đảo thăm chùa, vãn cảnh,…

Với diện tích khoảng 1730m2 trên khu đất rộng bằng phẳng nằm cạnh sông Dâu, chùa được xây dựng mang đậm phong cách nghệ thuật, kiến trúc của thời Lý, Trần do được tu sửa vào thời kỳ này. Quan trọng nhất là tháp Hòa Phong, tháp có chín tầng song trải qua thời gian lịch sử lâu dài nay chỉ còn ba tầng có chiều cao khoảng 15m. Chân tháp hình vuông, trong lòng tháp có bốn bệ gạch bốn bên, trên mỗi bệ là một tượng hộ pháp bằng gỗ cao 1,6m. Ở tầng hai của tháp có biển đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Đặc biệt hơn nữa tháp dùng để đặt các xá lị, bên trên là một chiếc khánh đồng và một chiếc chuông đồng lớn có niên đại từ 1893. Màu thời gian đã bao phủ lên tháp những lớp rong rêu xanh màu cổ kính. Song có thể nói giá trị của tháp Hòa Phong trong quần thể di tích chùa Dâu là không nhỏ bởi đã gây sự chú ý đặc biệt của khách du lịch thăm quan từ bốn phương về đây.

Đến với chùa Dâu ngoài cảnh quan đồ sộ, chúng ta còn được chiêm ngưỡng những pho tượng quý giá như Pháp Vân, Kim Đồng, Ngọc Nữ, những bức phù điêu chạm khắc trên những bức trống, cốn, giá chiêng mà ngày nay ít khi có được. Tất cả đều được tạc và rèn đúc rất tinh xảo trong bàn tay các nghệ nhân đời xưa. Tiêu biểu đó là tượng Pháp Vân cao 1m85cm tạo trong thế ngồi ở tòa sen toàn thân sơn màu cánh dán. Với chân dung tai to, lông mày cong lá liễu, cổ cao ba ngấn tay phải dơ 5 ngón lên trời, trong lòng bàn tay có một viên ngọc sáng. Nét thanh thoát, mềm mại của bức tượng đã toát lên vẻ nhân từ, độ lượng của nhà Phật thiêng liêng, cao quý. Ta còn nhận thấy rằng tín ngưỡng phật giáo Ấn Độ đan xen trong tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam như thờ các vị thần: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Gửi gắm vào đó là những mong ước cho mùa màng bội thu, cơm no áo ấm cho mọi chúng sinh của nhân dân khi trời đất được mưa thuận, gió hòa.

Một điểm đáng nói nữa trong công trình kiến trúc của chùa Dâu là hình trạm trổ trên đá. Đó là phong cảnh thiên nhiên chim muông, hoa lá, đặc biệt là rồng. Theo một số nhà nghiên cứu thì một số hiện vật bằng đá, gạch đất nung trang trí có hình vẽ rồng phần lớn là kiến trúc nghệ thuật rồng có niên đại vào thời Lý Trần. Con rồng không chỉ là biểu tượng văn hóa quý trong di sản văn hóa vật thể mà còn hiện diện rất phong phú trong di sản văn hóa phi vật thể. Nó đi vào đời sống hôm nay như một nhu cầu văn hóa không thể thiếu trong các lễ hội.
Ngày nay kiến trúc của chùa Dâu vẫn giữ nguyên như cũ: Nhà tiền thất, tháp Hòa Phong, Tiền Đường, tòa Tam Bảo, Thượng Điện, Hạ Điện, Hậu Đường, hai dãy hành lang,… Tuy nhiên thì cầu chín nhịp và Điện Tam quan đã không còn.

Hằng năm cứ vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, không ai bảo ai người dân từ thập phương đều kéo về nơi đây lễ Phật cầu may. Đó cũng là ngày hội chính của chùa Dâu, ngày mà bà Man Nương sinh hạ. Hội Dâu mở trong 3 ngày: mồng 7, mồng 8, mồng 9 âm lịch với một quy chế rất chặt chẽ. 11 kiệu Phật được rước ra ngoài trời, đi khắp 12 làng xã trong Tổng Khương. Các kiệu Phật được phong áo rất lộng lẫy uy nghi.

Gắn với lễ hội còn có các trò chơi dân gian như thi cướp nước, múa trống, múa gậy, múa sư tử. Ban đêm có hát chầu văn, hát chèo, hát trống quân,… Đi theo các pho tượng rước còn có các tán, long, tù và, trống chiêng… tất cả đã tạo nên cho ngày hội thêm đông vui, náo nhiệt.

Về với chùa Dâu ta còn được nghe kể rất nhiều chuyện, truyền thuyết dân gian về Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, về sự tích giữa ông Khâu Đà La và bà Man Nương đầy ly kỳ, hấp dẫn. Trong hiện tại và tương lai chùa Dâu mãi là một nơi mang đậm màu sắc dân tộc Việt Nam, là một nơi mang nhiều ý nghĩa lịch sử sâu sắc.

Không biết tự bao giờ, hội Dâu đã thành lịch trong dân gian với những câu ca quen thuộc:

Mồng bảy hội Khám
Mồng tám hội Dâu
Mồng chín đâu đâu
Cũng về hội Gióng.

Đồng thời chùa Dâu – hội Dâu đã trở thành tiếng gọi tâm linh đối với tất cả mọi người:

Dù ai đi đâu, về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Tháng tư, ngày tám, nhớ về hội Dâu.

Ngược dòng lịch sử, bóc trần từng lớp bụi thời gian ta mới thấy hết được ý nghĩa và vẻ đẹp truyền thống của khu di tích văn hóa chùa Dâu. Tôi tin rằng cả ngày hôm nay và mai sau viên ngọc quý đó sẽ mãi được trường tồn và bảo vệ bởi những lớp người tiến bộ của xã hội chủ nghĩa. Để chùa Dâu xứng đáng với tên gọi là một trung tâm phật giáo đầu tiên của nước ta. Niềm tự hào ấy không chỉ của những người dân Kinh Bắc mà của cả dân tộc, của cả trang sử vẻ vang trong nét đậm đà bản sắc quê hương.

Bài làm 2

Mỗi chuyến đi đều mang lại cho chúng ta rất nhiều trải nghiệm mới mẻ. Tết đến xuân về là lúc gia đình sum họp, đoàn viên, bên cạnh đó, đây cũng là dịp mỗi gia đình cùng nhau có những chuyến tham quan du lịch gắn kết tình cảm. Và một trong những địa điểm thăm quan du lịch đầu năm nổi tiếng gần Hà Nội chính là khu di tích đền Gióng.

Quần thể khu di tích Đền Sóc thuộc địa phận thôn Vệ Linh, xã Phù Linh, Huyện Sóc Sơn, Hà Nội. cách trung tâm Hà Nội khoảng 38km.

Theo truyền thuyết đây là điểm dừng chân cuối cùng trong cuộc hành trình cõi nhân gian của Thánh Gióng, sau khi đánh tan giặc Ân, ngài đã chọn nơi đây để siêu thoát về trời.

Quần thể khu di tích Đền Sóc được xây dựng từ thời Tiền Lê, năm 980 và đến nay đã trải qua 1041 năm, cùng với 13 lần trùng tu lớn nhỏ thì quần thể mới có diện mạo như ngày hôm nay. Được nhà nước công nhận là khu di tích cấp quốc gia năm 1962 và đặc biệt hơn nữa ngày 31/12/2014 thủ tướng chỉnh phủ đã công nhận khu di tích đền sóc là khu di tích quốc gia đặc biệt, bên cạnh đó thì hội gióng được unesco công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2010.

Quần thể khu tích gồm có 7 nơi thờ tự: Nơi thứ nhất sau khi đoàn nhà mình bước chân vào cổng thì bên tay trái ta đến với nơi thờ tự đầu tiên đó chính là ngôi đền Trình hay còn gọi là Đền Hạ nơi Thờ Quỷ Sơn Thần, Thổ Địa của núi Sóc này. Nơi thứ hai đó chính là ngôi đền mẫu thờ Mẹ thân sinh ra Thánh Gióng. Nơi thứ ba đó chính là ngôi chùa Đại Bi thờ phật, vị sư đầu tiên tu hành tại đây đó chính là vị sư Ngô Chân Lưu. Nơi thứ tư đó chính là lăng bia đá tám mặt, ngay phía sau ngôi chùa đại bi, đoàn nhà mình sẽ phải di chuyển đi qua 133 bậc đá và sẽ tới nơi, ở đó có ghi lại toàn bộ sự tích gióng cùng với lịch sử ngôi đền.

Nơi thứ năm đó chính là ngôi Chùa Non Nước, ở đó tượng phật được tạc bằng đồng nguyên khối nặng 30 tấn, cao 6.5m

Nơi thứ sáu đó chính là Tượng Đài Thánh Gióng trong tư thế siêu thoát về trời, được khánh thành vào năm 2010, nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội.

Nơi cuối cùng là ngôi Đền Thượng, chính là nơi ta vừa làm lễ dâng hương, nơi thờ thánh gióng và các chư vị thánh thần, đền nằm ngay dưới chân núi sóc, nên có tên gọi khác là Đền Sóc, đây cũng chính là nơi quan trọng nhất trong quần thể khu di tích.

Ngày nay, lễ Hội Gióng vẫn là một biểu tượng văn hóa đẹp đẽ, linh thiêng của dân tộc cần được bảo tồn. Mỗi lần về với đền Gióng, về với chốn linh thiên ta lại cảm thấy thêm yêu các giá trị văn hóa lịch sử và cảnh sắc quê hương mình hơn.

Bài làm 3

Quê hương em là huyện Đông Anh xinh đẹp với nhiều di tích lịch sử được nhiều người biết đến như đền Sái, đền Cổ Loa. Chắc hẳn khi nhắc đến đền Cổ Loa mọi người sẽ thấy rất quen thuộc bởi đây là một di tích lịch sử gắn liền với những truyền thuyết của dân tộc Việt Nam, như vua An Dương Vương định đô, xây thành, chiếc nỏ thần Kim Quy…

Được mệnh danh là tòa thành cổ lớn nhất Việt Nam, di tích Cổ Loa ngày nay thuộc địa phận xã Cổ Loa huyện Đông Anh. Hằng năm cứ đến ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch người dân trên cả nước lại trẩy hội Cổ Loa để chiêm ngưỡng các nghi lễ trang trọng cũng như những hoạt động nghệ thuật văn hóa dân gian đặc sắc.

Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vị trí đỉnh của tam giác châu thổ sông hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và bộ. Về giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình.

Địa điểm Cổ Loa chính là đất Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân cư đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng.

Thành được xây dựng kiểu vòng ốc (nên gọi là Loa thành) tương truyền có tới 9 vòng, dưới thành ngoài là hào sâu ngập nước thuyền bè đi lại được. Ngày nay, ở Cổ Loa còn lại 3 vòng thành đất: thành ngoài (8km), thành giữa (hình đa giác, chu vi 6,5km) và thành trong (hình chữ nhật, chu vi 1,6km). Thân thành ngày nay còn có chiều cao trung bình từ 4 – 5m, có chỗ còn cao tới 12m, chân thành rộng tới 20 – 30m. Các cửa của ba vòng thành cũng được bố trí rất khéo; không hề nằm cùng trên một trục thẳng mà lệch chéo đi rất nhiều. Do đó đường nối hai cửa thành ở cùng một hướng đều là một đường quanh co, lại có ụ phòng ngự ở hai bên nên gây rất nhiều trở ngại cho quân địch khi tiến đánh thành.

Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6m – 12m, chân rộng từ 20m – 30m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy. Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10m, mặt thành rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hồng. Thành ngoại cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3 m – 4 m (có chỗ tới hơn 8m).

Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ..

Qua các giai đoạn lịch sử, Cổ Loa có rất nhiều tên: Loa thành (thành ốc), thành Côn Lôn, thành Tư Long, Cửu thành, Thành Việt Vương, thành Khả Lũ, Cổ Loa thành. Đến thế kỷ thứ X, thời kỳ Ngô Quyền làm vua, Cổ Loa lại trở thành kinh đô lần thứ hai. Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”.

Hiện nay Cổ Loa là một trong 21 khu du lịch quốc gia Việt Nam, và Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Đến với thành Cổ Loa, du khách không chỉ được tham quan tòa thành vĩ đại của lịch sử mà còn cảm nhận được khung cảnh vùng quê với những di tích về truyền thuyết xưa kia. Lịch sử đã qua đi nhưng những mốc lịch sử xưa kia sẽ còn sống mãi cùng Cổ Loa thành.

Bài làm 4

Nhắc đến quê hương Thái Bình chắc hẳn ai cũng sẽ nhớ đến quê hương năm tấn cùng những cánh đồng lúa chín mênh mông bát ngát. Tuy nhiên, quê hương Thái Bình thân yêu của em cũng có một di tích lịch sử rất nổi tiếng và mang nhiều giá trị vắn hóa, đó chính là chùa Keo.

Chùa Keo nằm ở địa phận tỉnh Vũ Thư ngày nay, chùa còn có tên chữ là chùa Thần Quang. Đây là một ngôi chùa cổ đã tồn tại hơn 400 năm. Chùa Keo được xây dựng vào khoảng năm 1630, đến năm 1632 thì hoàn thành. Chùa được xây dựng theo phong cách kiến trúc thời Lê.

Ngày nay chùa Keo Thái Bình gần như vẫn còn giữ được nguyên vẹn các công trình. Nhất là những công trình được tôn tạo thời Lê Trung Hưng như: Tam quan, chùa Phật, đền Thánh, gác chuông, hành lang…

Điều đặc biệt của chùa Keo là sự bố trí sắp đặt các giàn tượng pháp: lớp trên tòa Tam thế là nơi đặt tượng Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai; lớp thứ hai có Phật Di Đà, Bồ Tát Quan Âm, Bồ Tát đại Thế Trí; lớp thứ ba có Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu; lớp thứ tư có Văn Thù, Phổ Hiền, La Hán. Đến chùa Keo chúng ta được tận mắt nhìn thấy những cổ vật có giá trị hàng trăm năm như: đôi chân đèn thời Mạc, đồ gốm thời Lê, thuyền rồng Long Đình, Phật Đình, nhang án thời Lê, tất cả đều được sơn son thếp vàng bóng nhoáng.

Không chỉ đặc sắc về mặt tượng pháp, hay những đồ cổ thâm niên hàng trăm năm mà chùa Keo còn đẹp và giá trị bởi kiến trúc của nó kỳ công vào bậc nhất so với các chùa nổi tiếng ở nước ta. Toàn bộ công trình được làm bằng gỗ lim. Dưới bàn tay điêu khắc tinh xảo của các nghệ nhân thời Hậu Lê, họ đã làm nên vẻ đẹp hết sức độc đáo của chùa Keo.

Điểm nhấn trong 107 gian chùa còn lại là gác chuông. Gác chuông chùa Keo cao 11,04m, thiết kế ba tầng mái, kết cấu bằng những con sơn chồng lên nhau. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ, gắn kết với nhau bằng mộng, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong, dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Gác chuông ngày nay còn là biểu tượng du lịch của tỉnh Thái Bình.

Một trong những độc đáo của chùa Keo khiến du khách không thể quên được đó là cách bài trí ngoại cảnh. Trong vườn chùa có rất nhiều cây xanh và hoa quý. Quần thể chùa soi bóng xuống ba mặt hồ hình chữ nhật ở phía trước và hai bên. Xung quanh hồ những cây cổ thụ lớn xum xuê xanh tốt quanh năm làm tăng thêm vẻ cổ kính, thâm nghiêm.

Dân gian có câu:

“Dù cho cha đánh mẹ treo
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm”.

Mỗi năm ở chùa Keo diễn ra hai mùa lễ hội. Lễ hội mùa xuân được bắt đầu từ ngày mồng 4 tháng giêng. Sau những ngày Tết sum vầy bên gia đình, dân làng khắp nơi của tỉnh Thái Bình và các tỉnh lân cận nô nức trẩy hội chùa Keo. Đến chùa Keo trong lễ hội mùa xuân du khách sẽ được xem lễ dâng hương tại đền Thánh, lễ rước kiệu… Và đặc biệt là du khách được đắm mình trong những trò chơi dân gian, những làn dân ca Bắc bộ…

Lễ hội chùa Keo mùa thu được tổ chức vào các ngày 13, 14, 15 tháng chín âm lịch hằng năm. Đây là mùa lễ chính, nhằm tưởng nhớ Thiền sư Không Lộ, người sáng lập nên chùa Keo. Ngoài những trò chơi dân gian, lễ rước kiệu, cúng Thánh, nhân dân còn cung tiến hương, hoa, trà quả và tham gia cuộc thi diễn xướng với nhiều đề tài sinh động.

Đến chùa Keo du khách còn được nghe kể về những truyền thuyết ly kỳ như: Tương truyền rằng từ khi đắc đạo, Thiền sư Không Lộ có khả năng bay trên không, đi trên mặt nước và thuần phục được rắn hổ mang. Truyền thuyết còn kể rằng trước khi viên tịch, ngài hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên và khúc gỗ biến thành tượng. Thánh tượng này nay còn lưu giữ trong hậu cung quanh năm khóa kín cửa.

Chùa Keo nằm ở chân đê sông Hồng, giữa vùng đồng bằng không bóng núi non, chùa Keo với Gác Chuông như một hoa sen vươn lên giữa biển lúa xanh rờn được vun bón bởi phù sa sông Hồng do nước sông Trà Lý bồi đắp. Đây là một trong những di sản quý giá minh chứng cho văn hoá và truyền thống của dân tộc.

Bài làm 5

“Cỏ non Thành Cổ một màu xanh non tơ
Bình minh Thành Cổ cỏ mềm theo gió đung đưa.
Cỏ non Thành Cổ một màu xanh non tơ
Nào có ai ngờ nơi đây một thời máu đổ…”

Nói đến Quảng Trị ta không thể không nhắc đến thành cổ Quảng Trị, danh lam thắng cảnh cũng như di tích lịch sử và là nơi tưởng niệm về những anh hùng liệt sĩ của “một thời máu đổ”.

Thành cổ Quảng Trị tọa lạc ở trung tâm thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị, là di tích Quốc gia đặc biệt của Việt Nam. Thành được xây dựng bằng đất dưới triều vua Gia Long, ban đầu thành cổ Quảng Trị nằm ở phường Tiền Kiên (Triệu Thành – Triệu Phong), đến năm 1809, vua Gia Long cho dời đến xã Thạch Hãn (tức vị trí ngày nay, thuộc phường 2, thị xã Quảng Trị).

Không chỉ ghi lại dấu tích về một sự kiện đẫm máu mà bi thương của dân tộc, mà thành Cổ Quảng Trị còn mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Nguyễn. Thành có dạng hình vuông, chu vi tường thành là hơn 2.000 m, cao hơn 4 m, dưới chân dày hơn 12 m, bao quanh có hệ thống hào, bốn góc thành là 4 pháo đài nhô hẳn ra ngoài. Thành được xây theo lối kiến trúc thành trì Việt Nam với tường thành bao quanh hình vuông được làm từ gạch nung cỡ lớn; kết dính bằng vôi, mật mía và một số phụ gia khác trong dân gian.

Thành trổ bốn cửa chính ở các phía Đông, Tây, Nam, Bắc. Kiến trúc của mỗi cổng thành xây bằng gạch, gồm hai tầng: tầng dưới là phần nền với bộ phận chính là cổng thành xây vòm cuốn theo kỹ thuật “bốn viên kê dọc, nêm giữa, đội khuôn”; tầng trên là một vọng lâu có kiến trúc độc đáo theo lối vọng lâu xây bằng gạch, mái cong, lợp ngói âm dương.

Nội thành có nhiều công trình kiến trúc được xây dựng nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho việc ở và làm việc của các cơ quan công đường thuộc bộ máy hành chính của tỉnh Quảng Trị. Trong đó, Hành cung là công trình trọng yếu, là nơi để Vua ngự và thăng quan cho các quan cấp tỉnh ở Quảng Trị hay tổ chức các lễ tiết trong năm.

Ngoài những công trình được xây dựng dưới thời Nguyễn còn lại như Hành cung, Dinh Tuần phủ, dinh Án sát, ngục thất, khám đường…, Thành cổ lại có thêm nhà lao, toà mật thám, trại lính khố xanh, cơ quan thuế đoạn… khi thực dân Pháp đặt chính quyền bảo hộ.

Có thể nói thành cổ Quảng Trị có ý nghĩa to lớn về mặt quân sự, cung cấp tư liệu nghiên cứu lịch sử về thời Nguyễn và là một trung tâm hành chính, chính trị và văn hóa của một địa phương qua nhiều thời kỳ lịch sử, đồng thời nơi đây còn có giá trị về lịch sự bởi thành chính là chứng nhân của một lịch sử đen tối, đầy biến động, bi thương của cả dân tộc, nó chứng kiến sự suy thoái và sụp đổ của nhà Nguyễn và chứng kiến tội ác của thực dân Pháp cũng như Đế quốc Mỹ, chính quyền Ngụy Sài Gòn đã bóc lột, hành hạ nhân dân ta qua hàng chục thập kỷ.

Như vậy, thành cổ Quảng Trị đã và đang chiếm giữ một vị trí quan trọng với người dân đất Quảng nói chung và người Việt Nam nói riêng. Những giá trị của nơi đây cần được bảo tồn, duy trì và phát huy, lưu truyền lại cho thế hệ nay và mai sau để những thế hệ ấy có cơ hội tìm hiểu, tiếp thu kiến thức về lịch sử nước nhà từ đó thêm trân trọng nền hòa bình của đất nước bởi nó đã được đánh đổi bằng mồ hôi, xương máu của ông cha ta và để có thêm động lực, có thêm lý do mục tiêu cố gắng học tập để cống hiến cho quê hương, đất nước.

Qua bao thăng trầm lịch sử, thành cổ Quảng Trị vẫn ở đó, nhưng người đã mãi ra đi không thể quay về. Là nhân chứng cho những tội ác của chủ nghĩa thực dân và đế quốc, cũng là nhân chứng cho những nỗi đau bi thương của cả dân tộc, mẹ mất con, con mất cha, vợ mất chồng. Nơi những người anh hùng đã nằm xuống vì sự tàn bạo của chiến tranh.

Qua bài thuyết minh về Thành cổ Quảng Trị, chúng ta sẽ phần nào thấu hiểu nổi đau của sự mất mát, sự khốc liệt của chiến tranh đã để lại. Đồng thời cũng đề cao ý chí chiến đấu của dân tộc ta, đánh đổi xương máu để giành lấy hòa bình.

Bài làm 6

Nhắc đến phố cổ Hội An, không thể không nhắc đến công trình kiến trúc Chùa Cầu. Di tích Chùa Cầu với vẻ đẹp cổ kính đã đi vào trong thơ ca, nhạc họa, làm đắm say biết bao lòng người. Với người dân phố Hội, Chùa Cầu là linh hồn, là biểu tượng tồn tại hơn bốn thế kỷ qua. Công trình như một mảnh ghép nối liền giữa quá khứ với hiện tại và tương lai. Ngày nay, chùa vẫn ở đó, uy nghi mà trầm mặc như nhân chứng cho lịch sử một thời vang bóng nhưng vẫn sáng mãi nơi phố Hội.

Nằm ở đoạn tiếp giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai và Trần Phú, Chùa Cầu gây ấn tượng không chỉ bởi lối kiến trúc độc đáo mà còn những bí ẩn mà công trình này mang trong mình. Chùa Cầu – giống như tên gọi – là ngôi chùa nằm trên chiếc cầu bắc ngang qua con lạch nhỏ trong khu đô thị cổ Hội An. Công trình được xây dựng vào đầu thế kỷ 17 (khoảng năm 1617) bởi các thương nhân Nhật Bản.

Lúc ban đầu chỉ xây dựng chiếc cầu bắc ngang qua sông Hoài. Mãi đến năm 1653, người ta mới dựng thêm phần chùa. Khu vực này nối liền vào lan can phía Bắc, nhô ra giữa cầu, và tên gọi chùa Cầu ra đời từ đó. Đây là công trình duy nhất có gốc tích từ xứ sở Phù Tang trong lịch sử. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu khi thăm Hội An thấy chùa Cầu đặc biệt nên đặt tên chiếc cầu là Lai Viễn Kiều, với ý nghĩa “bạn phương xa đến”. Ngày nay, chúng ta vẫn có thể được thấy 3 chữ Hán: “Lai Viễn Kiều” được chạm nổi trên một tấm bảng lớn trước cổng chùa.

Do người Nhật xây dựng, nhưng Chùa Cầu lại mang đậm nét kiến trúc đặc biệt của Việt Nam. Phần cầu dài 18 mét, uốn cong rất mền mại. Trụ móng cầu bằng cột đá đẽo vuông vức, rất vững chắc. Chùa Cầu là một kiến trúc liên hợp: CHÙA và CẦU. Chùa và cầu gắn nhau qua vách gỗ với bộ cửa chính thượng song hạ bản. Phần trên của cầu được thiết kế thành một ngôi chùa độc đáo. Chùa gồm có 7 gian. Trong đó 5 gian kết cấu gỗ theo kiểu trình chồng trụ đội, 2 gian đầu hồi uốn cong theo hình vỏ cua, mái lợp ngói âm dương – một nét đặc trưng của kiến trúc Việt Nam. Ở giữa là lối qua lại kiểu cầu vòng, hai bên có hành lang hẹp để làm nơi nghỉ mát với bảy gian bằng gỗ. Toàn bộ chùa và phần trên cầu đều làm bằng gỗ, được sơn son và trạm trổ nhiều hoạ tiết tinh xảo trong kiến trúc Việt – điển hình là rồng, đồng thời điểm xuyết đôi chút phong cách Nhật Bản.

Nên Xem:  Dàn ý thuyết minh về cây phượng lớp 9 chi tiết

Lịch sử ra đời của Chùa Cầu gắn liền với truyền thuyết tâm linh của người Nhật Bản. Người Nhật Bản cho rằng ở ngoài đại dương có một thủy quá tên gọi là Namazu. Mỗi khi di chuyển, đuôi của nó quẫy mạnh khiến trái đất rung chuyển, tạo nên những chấn động kinh hoàng và chỉ có thần Kashima, vị thần của sấm sét và kiếm đạo mới có đủ khả năng chế ngự con cá trê khổng lồ này. Người Nhật cho rằng con Namazu có đầu ở tận quê nhà Nhật Bản, đuôi ở Ấn Độ nhưng lưng của nó vắt qua khe ở Hội An mà cầu Nhật Bản bắc qua. Mỗi khi con thủy quái đó quẫy mình thì nước Nhật bị động đất và Hội An cũng không được yên ổn. Điều trùng hợp là khi sang Việt Nam buôn bán ở phố Hội, các thương gia người Nhật cũng thường xuyên phải đối phó với cảnh lụt lội.

Để được bình yên làm ăn buôn bán, với kinh nghiệm của mình, người Nhật khi qua định cư tại Hội An đã cố tìm thầy phong thủy giỏi để xem thế đất, cắm điểm xây dựng một chiếc cầu tại đây hình dáng như là một thanh kiếm đâm xuống ngay sống lưng con Namazu, khiến nó không thể quẫy đuôi gây ra động đất nữa.

Ngoài ra, người Nhật cũng tin rằng thần linh hầu (khỉ) và linh khuyển (chó) có khả năng trấn áp con thủy quái đó. Bởi thế, để khống chế con Mamazu, người Nhật đã thờ các Thần Khỉ và các Thần Chó trên hai đầu cầu để chế ngự con thuỷ quái đó. Điểm yểm chính thức là một bia đá cách cầu theo đường chim bay khoảng 1km về hướng tây-bắc. Bia đá nằm khuất sau cây đa trên đường Phan Châu Trinh cách nhà thờ Tin Lành 300 mét.

Trải qua thời gian, khi người Nhật dần vắng bóng ở Hội An, người Trung Hoa lập làng Minh Hương đã nhiều lần góp công trùng tu, sữa chữa công trình kiến trúc cổ này. Chùa được trùng tu vào các năm 1817, 1865, 1915, 1986. Tuy có được thêm vào một vài họa tiết, linh vật thờ cúng theo tín ngưỡng của người trung Hoa nhưng về cơ bản, Chùa Cầu không có nhiều thay đổi.

Nhìn từ xa, Chùa Cầu Nằm vắt mình qua một nhánh nhỏ của dòng Thu Bồn quanh năm ôm ấp thành phố, nổi bật với đường cong của mái che mềm mại, uyển chuyển, tựa như cầu vồng, làm bừng sáng một góc phố cổ, cổ kính mà lại hiện đại, trầm mặc mà lại rất nhộn nhịp, đa màu sắc từ văn hóa cho tới kiến trúc và tôn giáo. Xung quanh Chùa Cầu được bao bọc bởi khu phố cổ nghìn năm lịch sử, phảng phất đâu đó nơi góc phố hàng cây chút buồn miên man nhưng vẫn chan chứa niềm tin và hi vọng về tương lai tươi sáng rực rỡ của người dân nơi đây, những con người không ngừng ước mơ và lạc quan về cuộc sống.

Lặng lẽ, cổ kính, trầm mặc giữa phồn hoa của phố Hội hiện đại, Chùa Cầu ẩn chứa trong mình chiều sâu triết lý. Nơi ấy biết bao lần đã chứng kiến sự đổi thay của lịch sử theo bao thăng trầm thời gian và hơn hết cả là ghi dấu sự giao thoa của những nền văn hóa độc đáo, tất cả đã khoác lên phố Hội nét đẹp hiếm có của ngày hôm nay.

Năm 1990, Chùa Cầu được công nhận là Di tích Lịch sử – Văn hóa cấp quốc gia. Không chỉ có ý nghĩa về tâm linh, cầu còn có vai trò khá quan trọng về giao thông. Đến nay, ngôi chùa dường như đã trở thành tài sản vô giá, chính thức được chọn là biểu tượng của Hội An.

Bài làm 7

Đất nước hình chữ S nhỏ bé của chúng ta có rất nhiều địa điểm du lịch độc đáo và nổi tiếng. Tự hào được thiên nhiên ưu ái, nước Việt Nam ta có rất nhiều bãi biển, vũng vịnh tuyệt đẹp. Có thể kể đến rất nhiều những địa điểm như thế. Nhưng không thể nào thiếu Vịnh Hạ Long.

Hạ long là cái tên tự hào của người Việt Nam. Được UNESCO công nhận là bảy kỳ quan thiên nhiên đẹp nhất thế giới, Vịnh Hạ Long đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng hình ảnh đẹp của chúng ta trong mắt bạn bè quốc tế. Vịnh Hạ Long nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam thuộc một phần của vịnh Bắc Bộ. Vịnh Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh – Việt Nam bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả, và một phần của huyện đảo Vân Đồn. Phía tây nam vịnh giáp đảo Cát Bà, phía đông là biển, phần con lại giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km với tổng diện tích 1553 km2.

Vịnh Hạ Long gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ. Đảo ở đây có hai loại là đảo đá vôi và đảo phiến thạch tập trung ở Bái Tử Long và vịnh Hạ Long. Ở đây, chúng ta có thể tham gia chiêm ngưỡng hàng loạt những hang động đẹp, nổi tiếng. Vùng di sản thiên nhiên được UNESCO công nhận có diện tích 434 km2 gồm 775 đảo. Phần thiên nhiên được công nhận này như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Đầu Gỗ ở phía Tây, hồ Ba Hầm ở phía nam và đảo Cống Tây ở phía đông. Sự độc đáo của vịnh Hạ Long chính là hình dáng, đặc điểm của những hòn đảo nhỏ ấy.

Các hang động đẹp cũng là điểm nhấn lớn của Hạ Long. Từng đảo, từng đảo quần tụ lại nhìn xa cứ như lớp lớp chồng lên nhau, tiến lại gần thì như xen kẽ nhau tạo thành một quần thể đẹp đến lạ lùng. Phải tự hào chúng ta được tạo hóa ưu ái. Từng đảo của vịnh không mang những đẹp mà còn mang hình hài của vạn vật. Từ hòn Trống Mái, hòn Ông Sư, hòn Lã Vọng rồi đến đảo Tuần Châu, hang Trinh Nữ….

Vịnh Hạ Long không chỉ đẹp bởi đảo đá, núi đá, hang động, mà còn đẹp bởi nước biển ở đây. Nước biển rất trong xanh. Chính vì thế mà du khách tới đây thường để tắm biển và ngắm đảo, hang động. Tên gọi Vịnh Hạ Long có từ thời Pháp thuộc. Trước đây vịnh có tên là Lục Châu, Lục Hải. Thời nhà Lý, vịnh có tên là Hải Châu. Đến thời vua Trần, Lê được gọi bằng các tên như: An BAng, Vân Đồn, Ngọc Sơn, Lục Thủy. Tên của vịnh được thay đổi nhiều qua các thời kỳ. Cái tên vịnh Hạ Long xuất phát từ truyền thuyết Rồng đáp xuống bảo vệ chúng ta khỏi lũ giặc ngoại xâm. Theo nghĩa HÁn Việt “Long” là rồng, “hạ” là đáp xuống. Cái tên Hạ Long chính là để nhắc về truyền thuyết này.

Vịnh Hạ Long được vinh danh là kỳ quan thiên nhiên thế giới không chỉ bằng vẻ đẹp mà còn bởi nhiều yếu tố khác. Chẳng hạn như, ở nơi đây có rất nhiều địa danh khảo cổ học nổi tiếng: Đồng Mang, Soi Nhụ, Thoi Giếng… Nó đã chứng minh, Hạ Long là cái nôi của nền văn minh con người thời kỳ Hậu đồ đá. Hơn hết, ở đây còn có sự đa dạng sinh học bậc nhất. Với sự tập trung của nhiều loài động thực vật đặc trưng cho từng kiểu hệ sinh thái: hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới… cùng với hàng ngàn loài động vật biển quý hiếm chỉ có ở vịnh Hạ Long. Điểm quan trọng không kém của vịnh Hạ Long này chính là nó gắn liền với nhiều giai thoại lịch sử của dân tộc, với nhiều chiến công chống giặc ngoại xâm lẫy lừng của các vị tướng anh hùng. Có thể kể đến: chiến thắng sông Bạch Đằng lẫy lừng năm xưa.

Một kỳ quan thiên nhiên, một dấu ấn lịch sử. Đến vịnh Hạ Long bạn không chỉ được tận hưởng một không gian đẹp, thiên nhiên bao trùm, cảnh sắc thoải mái nhẹ nhàng và êm dịu, mà còn được thưởng thức những món ăn ngon chế biến từ hải sản, các hoạt động giải trí. Đến Hạ Long chắc chắn bạn sẽ có một kì nghỉ dưỡng tuyệt vời.

Bài làm 8

Phố cổ Hội An là một thành phố nổi tiếng của tỉnh Quảng Nam, một phố cổ giữ được gần như nguyên vẹn với hơn 1000 di tích kiến trúc từ phố xá, nhà cửa, hội quán, đình, chùa, miếu, nhà thờ tộc, giếng cổ… đến các món ăn truyền thống, tâm hồn của người dân nơi đây. Một lần du lịch Hội An sẽ làm say đắm lòng du khách bởi những nét đẹp trường tồn cùng thời gian, vô cùng mộc mạc, bình dị.

“Anh muốn kể Lai Viễn Kiều Hội phố

Đón đợi người sang nghiêng bóng sông chiều

Mái gỗ cầu cong sơn son chạm trổ

Mấy trăm năm rồi ngói vẫn ấm màu rêu”.

Hình ảnh một góc tại Phố cổ Hội An.

Hội An nổi tiếng bởi vẻ đẹp kiến trúc truyền thống, hài hòa của những ngôi nhà, bức tường và cả những con đường. Cùng với bao biến cố thăng trầm của lịch sử, phố cổ Hội An vẫn giữ những nét đẹp xưa cổ trầm mặc rêu phong trong từng mái ngói, viên gạch, hàng cây… như chính nét bình dị trong tính cách, tâm hồn thuần hậu, chân chất của người dân địa phương.

Kiểu nhà ở phổ biến nhất chính là những ngôi nhà hình ống chỉ một hoặc hai tầng với chiều ngang hẹp, chiều sâu rất dài. Nhà được làm từ những vật liệu có sức chịu lực và độ bền cao do đặc điểm khí hậu khắc nghiệt nơi đây, hai bên có tường gạch ngăn cách và khung nhà bằng gỗ, chia thành ba gian với lối đi ở giữa. Mỗi ngôi nhà ở Hội An đều đảm bảo sự hài hòa giữa không gian sống và thiên nhiên, nên ngoài việc bố trí ngôi nhà thành các gian thì phần sân trời của ngôi nhà được lát đá và trang trí bể nước, non bộ, cây cảnh, tạo nên một nét đẹp tổng thể. Với lối kiến trúc độc đáo, không gian ngôi nhà ở Hội An luôn thoáng đãng, tràn ngập ánh sáng mặt trời, con người và thiên nhiên như hòa làm một.

Đường phố ở khu phố cổ được bố trí ngang dọc theo kiểu bàn cờ với những con phố ngắn và đẹp, uốn lượn, ôm lấy những ngôi nhà. Dạo bước chân qua từng con phố nhỏ xinh và yên bình ấy, du khách không chỉ được thưởng thức những món ăn ngon mà còn thấy được một phần cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân phố Hội, một cuộc sống yên bình, giản dị. Quần thể di tích kiến trúc Hội An hết sức phong phú và tuyệt mỹ vì vậy nơi này đã, đang và mãi là địa điểm thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan, khám phá và tận hưởng trọn vẹn kỳ nghỉ khi đặt khách sạn ngay khu phố cổ Hội An.

Bạn nhất định phải tới tham quan “biểu tượng của Hội An” – Chùa Cầu. Chùa Cầu, hay còn được gọi là Chùa Nhật Bản nằm tiếp giáp giữa đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú, là công trình kiến trúc độc đáo, tiêu biểu ở Hội An. Ngôi chùa này được các thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại đây xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ 16.

Bên cạnh đó, để hiểu hơn về cuộc sống và văn hóa người Hội An, du khách nên đến tham quan một số nhà cổ nổi tiếng và các công trình tâm linh, xã hội như nhà cổ Quân Thắng, Đức An, Tấn Ký, … hay một số hội quán như Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông … Đây là những địa điểm đẹp ở Hội An giúp du khách được trải nghiệm không gian văn hóa đặc trưng phố Hội.

Đèn lồng cũng được coi là một “đặc sản” không thể bỏ qua khi đến du lịch tại Hội An. Du khách dễ dàng bắt gặp những chiếc đèn lồng đủ màu sắc sặc sỡ và hình dáng quanh các con phố, ngôi nhà. Vào ngày Rằm hàng tháng, có một Hội An thật khác trong mắt du khách – một Hội An lộng lẫy với ánh sáng của đèn lồng, đèn hoa đăng.

Phố cổ Hội An vẫn luôn mang một nét đẹp riêng trong từng góc phố, từng mái nhà, và trên những con đường nhỏ. Đến đây, du khách có thể cảm nhận được sự ấm áp trong từng món ăn, từ nụ cười thân thiện, gần gũi của người dân. Thậm chí để cả cây cỏ, không gian nơi đây cũng hấp dẫn du khách. Bước đi trên từng con phô nhỏ, bạn như tìm thấy chính mình trong những ngày xưa cũ, những ký ức đẹp đẽ của tuổi thơ trên mảnh đất xa lạ và đầy thân thương này.

Bài làm 9

Phố cổ Hội An – địa danh đã gắn liền với quá khứ nổi bật về sự giao lưu của nhiều nền văn hóa: Việt, Nhật, Hoa; một đô thị gắn liền với thương cảng quan trọng của khu vực Đông Nam Á trong suốt nhiều thế kỷ.

Cho đến nay kiến trúc Hội An vẫn được bảo tồn gần như nguyên trạng với một quần thể di tích kiến trúc gồm nhiều loại hình: Nhà ở, Hội quán, đình chùa, miếu, giếng, cầu, nhà thờ tộc, bến cảng, chợ… kết hợp với đường giao thông ngang dọc tạo thành các ô vuông kiểu bàn cờ mô hình phổ biến của các đô thị thương nghiệp phương đông thời Trung đại. Cùng với cuộc sống thường ngày của cư dân những tập quán, sinh hoạt văn hóa lâu đời vẫn đang tồn tại và được duy trì, vì vậy nơi đây là bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.

Phố cổ Hội An cùng với cảnh quan thiên nhiên, bãi tắm sông nước, hải đảo, các món ăn đặc sản truyền thống đang là nơi hấp dẫn khách du lịch tham quan, nghiên cứu trong và ngoài nước, đó là một cái gì thật đáng quan tâm. Sự giao thoa văn hóa đã làm nên một Hội An được Unesco ghi tên vào danh mục Di sản văn hóa thế giới vào năm 1999.

Cảng Hội An hình thành từ thế kỷ 15, là nơi các thương buôn người Hoa, Nhật, Bồ Đào Nha cập bến buôn bán và để lại dấu tích riêng qua các ngôi chùa. Đến nửa sau thế kỷ 17, nơi này mới thay đổi dần nhưng vẫn là Thành phố đặc thù của Đại Việt. Thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Hội An vẫn là nơi mua bán sầm uất cho đến khi có những biến động chính trị xã hội lớn. Vào những năm 80, phố cổ trở thành địa điểm du lịch thu hút du khách khắp thế giới.

Xưa kia, phố cổ Hội An chỉ có một con đường kéo dài từ chùa Cầu đến chùa Ông (nằm trước chợ Hội An bây giờ) và sau này kéo dài đến chùa Ông Bổn. Hội An nhìn ra sông Chợ Củi, tên gọi của sông Thu Bồn vào đầu thế kỷ 20. Chợ Củi có quy mô buôn bán lớn và là thắng cảnh nổi tiếng được sánh với Ngũ Hành Sơn. Đến đây, thú vị nhất vẫn là thả bộ trên những đường phố tĩnh lặng hoặc ngồi trên xích lô, thong dong ngắm nhìn từng mái nhà lô xô rêu phong cổ kính, ngói được lợp cách đây vài trăm năm. Đặc biệt là về đêm càng trở nên lung linh, huyền bí bởi những ngọn nến thắp trong đèn lồng kiểu Trung Hoa hoặc đèn hình quả nhót, quả bí bằng tre phủ những vuông lụa tơ tằm đủ sắc màu treo ở đầu hiên nhà.

Đến Hội An không thể không ghé thăm chùa Cầu, biểu tượng của phố cổ nơi đây. Còn có tên gọi là Lai Viễn Kiều, Chùa Cầu bắt qua con lạch chảy ra sông Thu Bồn, do các thương nhân Nhật Bản xây dựng vào khoảng thế kỷ 16, 17. Chùa Cầu ở Hội An do người Nhật xây dựng từ những ngày đầu thành gồm 2 phần: Cầu và Chùa. Cầu bằng gỗ ghép lại, có mái che lợp ngói. Chùa có lối kiến trúc khá đặc biệt, mái lợp ngói âm dương đã ngả màu thời gian. Chùa và cầu đều bằng gỗ sơn son chạm trổ công phu, đây không chỉ là một cây cầu hay một ngôi chùa, nó còn là nơi hội họp của xóm làng ngày trước, với ước mơ về một cuộc sống giao hòa tương thân tương ái của cộng đồng.

Các di tích khác như Hội quán Quảng Đông, Hội quán Phước Kiến và những ngôi chùa cổ kính cùng những ngôi nhà gỗ hàng trăm năm tuổi đều khiến người ghé thăm phải nghiêng mình thán phục về sự tinh xảo khéo léo mà vẫn rất lắng sâu của bàn tay con người. Vừa nguy nga tráng lệ, vừa đồ sộ cao quý, tất cả các công trình đều trở thành những cuốn biên niên sử sống động nhất, lưu giữ một quá khứ vàng son của cộng đồng người Hoa cũng như các cư dân ngày trước ở Hội An.

Những con đường đầy bóng cây và mùi hoa sữa vào độ tháng 10, những ngõ nhỏ quanh co dẫn đi vòng vèo trong phố cổ, những hàng quán san sát mang vẻ đẹp thâm niên với giàn hoa rũ xuống từ mái ngói đã úa màu… đã làm nên một Hội An cổ kính và nên thơ. Vì thế, dẫu trải qua bao đổi thay, sự bồi lắng của cửa sông và những biến cố của lịch sử, Hội An vẫn tồn tại ở đó, mãi mãi là ký ức tuyệt đẹp trong lịch sử phát triển đất nước ta.

Sáng kiến khôi phục việc thắp đèn lồng thay cho ánh sáng điện đã mang lại hiệu quả không ngờ ngay từ buổi đầu tiên. Ánh sáng của đèn lồng mờ dịu và phảnh phất dấu ấn của thời gian xưa cũ. Những chiếc đèn tròn, lục lăng theo phong cách Trung Hoa treo dưới mái hiên và hai bên cửa ra vào, đèn quả trám hoặc ống dài kiểu Nhật Bản phất giấy trắng lơ lửng dọc theo hàng cột, đèn trụ vuông, đèn quả trám to nhỏ các cỡ… tất cả đã tạo lên một thế giới lung linh, huyền ảo. Đỉnh cao của sự phát triển là sinh hoạt “Đêm phố cổ”, diễn ra vào đêm 14 âm lịch hàng tháng. Với đêm phố cổ, không chỉ có văn hóa vật thể mà văn hóa phi vật thể của Hội An cũng được tôn vinh với các hội hát bài chòi, hò khoan đối đáp, văn hóa ẩm thực, các câu lạc bộ thơ, nhạc truyền thống, múa lân, hoa đăng, trẻ em thì hát đồng dao bên Chùa Cầu…

Trong bầu không khí đó, hãy kiểm nghiệm sự hiện hữu bằng việc nếm một vài món ăn phong vị xứ Quảng như bánh Bo, bánh Vạc, Cao lầu tại các nhà hàng còn giữ nguyên hình ảnh đầu thế kỷ. Hiện diện trên phố Hội An là vô số các cửa hàng bầy bán các loại đèn lồng làm kỷ niệm. Tuỳ theo chất liệu vải bọc ngoài mà ngọn đèn đưa tới những loại ánh sáng khác nhau. Ðó có thể là mầu đỏ may mắn, mầu vàng tươi vui, mầu gấm huyết dụ kiêu sa hay sắc xanh lãnh lẽo. Tuy nhiên khó so sánh được với những chiếc đèn lồng có tuổi hàng thế kỷ đang được các gia đình sinh sống lâu đời ở đây gìn giữ và chỉ chưng ra trong đêm hội hoa đăng. Những ngọn đèn này được chế tác từ gỗ quý, chạm trổ cầu kỳ và trên mỗi tấm kính là một tác phẩm hội hoạ thật sự. Các tích truyện cổ nổi tiếng được nghệ nhân xưa vẽ trên kính, sinh động và hoàn hảo như một bức tranh đắt giá. Mỗi khi ngọn nến bên trong toả sáng, cảnh mây trắng, trời xanh hoặc nước biếc sẽ liên tục quay tròn, hắt bóng các chi tiết lên mặt kính.

Khung cảnh và ánh sáng kỳ ảo trong khu phố cổ quyện với giọng ca bài chòi, hò khoan, giã gạo… vẳng lên từ con thuyền đậy dưới bến sông, dưới mái hiên, nơi đầu phố… tạo ra sức cuốn hút kỳ lạ. Không quá trang nghiêm như Cố Ðô Huế, không quá sôi động như chợ Lớn, nét cổ truyền nơi đây mang một vẻ thuần khiết, thu hút những tâm hồn ưa chuộng lãng mạn của những ngày xa xưa.

Gánh nặng thường trực của Hội An vẫn là việc di tích bị xuống cấp nghiêm trọng và phố cổ quá tải. Từ nhiều nguồn, tỉnh Quảng Nam đã luôn đầu tư để trùng tu, tu bổ di tích đang xuống cấp và xuống cấp nghiêm trọng tại phố cổ. Mọi ngôi nhà cổ trong phố cổ khi trùng tu, sửa chữa đều có sự giám sát của cơ quan chức năng. Nguồn thu từ bán vé tham quan phố cổ mỗi năm được trích từ 20 – 80% cho việc sửa chữa, trùng tu các di tích, nhà cổ. Người dân ở trong hẻm cũng có ý thức, trách nhiệm giữ gìn phố cổ như nhà ở mặt tiền. Chủ trương tạo điều kiện cho cư dân được hưởng lợi từ việc bảo tồn, phát huy giá trị di tích phố cổ đã gắn kết người Hội An với Di sản văn hóa.

Khác với Cố đô Huế, Hạ Long, Mỹ Sơn, Phong Nha-Kẻ Bàng, ở Hội An hơn 90% di tích là của tư nhân, do người dân, do các tộc họ, bang hội quản lý, sử dụng. Đó là một việc làm phù hợp với nguyên lý: Bảo tồn để phát triển. Phố cổ chỉ có giá trị khi chúng ta biết phát huy tối đa vốn cổ với chiều dày văn hóa của nó.

Được sự ủng hộ của các chuyên gia Unesco, phố cổ Hội An đã duy trì như thời điểm được công nhận Di sản văn hoá thế giới. Vẫn rêu phong, cổ kính, nên thơ và nét mới là đường phố sạch sẽ hơn, nhà cửa đẹp hơn, hàng hóa phong phú hơn, mẫu mã đẹp hơn mà chủ yếu vẫn là hàng lưu niệm, hàng hóa đặc thù của phố cổ, tình người thì vẫn ấm áp, thân mật và gần gũi.

Bài làm 10

Nói về văn hóa tâm linh của người Việt không thể không nhắc đến những đền chùa cổ kính, linh thiêng mang nét đẹp đặc trưng, trầm lắng, nơi bày tỏ niềm thành kính, biết ơn với người xưa, với tín ngưỡng tôn giáo. Một trong những ngôi chùa cổ, nổi tiếng của nước ta phải kể đến chùa Hương – danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa và tín ngưỡng của Việt Nam.

Chùa Hương hay còn gọi là Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa – tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp, nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17 vào thời kỳ Đàng Trong – Đàng Ngoài, sau đó bị hủy hoại trong kháng chiến chống Pháp năm 1947, sau đó được phục dựng lại năm 1988 do Thượng Tọa Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hòa thượng Thích Thanh Chân.

Nơi đây gắn liền với với tín ngưỡng dân gian thờ Bà Chúa Ba, theo phật thoại xưa kể lại rằng người con gái thứ ba của vua Diệu Trang Vương nước Hương Lâm tên là Diệu Thiện chính là chúa Ba hiện thân của Bồ Tát Quan Thế Âm, trải qua nhiều thử thách, gian nan với chín năm tu hành bà đã đắc đạo thành Phật để cứu độ chúng sinh.

Dưới đôi bàn tay khéo léo của người xưa cùng với những nét đẹp tạo hóa mà thiên nhiên ban tặng, mà vẻ đẹp của chùa Hương mang một dấu ấn rất riêng, đưa ta đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến.

Khu vực chính là chùa Ngoài, còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù. Chùa nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái.

Đây là một công trình cổ, dáng dấp độc đáo vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, năm 1980 được di chuyển về chùa Hương làm tháp chuông.Chùa Chính, tức chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên.

Ở lối xuống hang động có cổng lớn, trán cổng ghi bốn chữ “Hương Tích động môn”. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán“Nam thiên đệ nhất động” là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá.

Lễ hội chùa Hương được tổ chức vào ngày mồng sáu tháng giêng, thường kéo dài đến hạ tuần tháng ba âm lịch. Vào dịp lễ, hàng triệu phật tử cùng du khách tứ phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương.

Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng giêng đến 18 tháng hai âm lịch.Đây là ngày lễ khai sơn của địa phương nhưng ngày nay nghi lễ khai sơn được hiểu theo nghĩa mở- mở cửa chùa. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản.

Một ngày trước khi khai hội, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều được thắp hương nghi ngút.Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ.

Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về “thiền”. Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo.

Đền Cửa Vòng là “chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngàn, người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là “tì nữ tuý Hồng” của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần. Ta có thể thấy phần lễ là tổng hợp toàn thể hệ thống tín ngưỡng, gần như là tổng thể những tín ngưỡng tôn giáo của Việt Nam.

Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng. Lễ hội chùa Hương còn là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn.

Không chỉ có vẻ đẹp độc đáo của kiến trúc, phong cảnh chùa cùng với nét đặc sắc của ngày lễ mà chùa Hương còn chứa đựng những giá trị sâu sắc về văn hóa tâm linh, lịch sử dân tộc và còn là giá trị sống của chuỗi phát triển con người từ xa xưa đến ngày nay, cần được bảo tồn, duy trì và gìn giữ di sản mà ông cha ta để lại.

Như vậy, với những giá trị đó, chùa Hương chính là niềm tự hào của người Hà Nội nói chung và người Việt Nam nói riêng, đến với chùa Hương là đến với không gian thanh tịnh, sống chậm lại để cảm nhận sự nhẹ nhõm trong tâm hồn, buông bỏ mọi áp lực, căng thẳng trong cuộc sống ngoài kia.

Bài làm 11

Văn Miếu Quốc Tử Giám tọa lạc giữa thủ đô Hà Nội, được xem là trường đại học đầu tiên tại Việt Nam. Từ những năm đầu tiên, ngôi trường này đã tụ họp rất nhiều người tài, đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay Văn Miếu vẫn là điểm đến của nhiều du khách khi ghé thăm Hà Nội bởi kiến trúc độc đáo, ấn tượng.

Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua bao nhiêu biến động, thăng trầm của lịch sử nhưng nó vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của con người Hà Nội. Đó là giá trị tinh thần cao đẹp được gìn giữ từ bao nhiêu năm. Văn Miếu nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long thời Lí. Văn Miếu được được vào hoạt động trong khoảng thời gian từ 1076 cho đến 1820, đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước.

Văn Miếu bao gồm hai di tích chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường học. Trải qua bao nhiêu năm nhưng Văn Miếu vẫn giữ được những nét đẹp cổ xưa.

Ban đầu Văn Miếu là nơi học tập của các hoàng tử, sau này mới mở rộng ra cho những người tài trong cả nước. Văn Miếu có diện tích 54.331 m2 bao gồm Hồ Văn, vườn Giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ. Với những kiến trúc được thiết kế từ thời xa xưa, in dấu biết bao nhiêu thăng trầm của thời gian, của những đổi thay đất nước.

Nên Xem:  Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Khi bước vào khu Văn Miếu, du khách sẽ đến với cổng chính, trên cổng chính là chữ Văn Miếu Môn. Phía ngoài cổng có đôi rồng đá thời Lê, bên trong là rồng đá thời Nguyễn. Khu thứ hai chính là Khuê Văn Các được xây dựng năm 1805 gồm 2 tầng, 8 mái rất rộng rãi. Đây là nơi tổ chức bình các bài thơ và văn hay của sĩ tử thời xưa. Khu thứ ba chính là từ gác Khuê Văn tới Đại Thành Môn, ở giữa có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tĩnh. Ở hai bên hồ là nơi lưu giữ 82 bia tiến sĩ có ghi tên, quê quán, chức danh của những người nổi tiếng như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn…

Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung; có những hiện vật quý hiếm được lưu truyền từ bao đời nay như chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Đây được xem là chiếc chuông lớn, có giá trị lịch sử và văn hóa lâu đời. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ Xương, mặt ngoài khắc bài mình biết theo kiểu chữ lệ nói về công dụng loại nhạc cụ này. Khu thứ 5 chính là Trường Quốc Tử Giám. Ở đây là nơi dạy học, tuyển chọn người tài, đỗ đạt cao giúp cho vua nâng cao trí thức. Có rất nhiều người từ ngôi trường này đã gây nên tiếng vang lớn cho đến ngày nay như Chu Văn An, Bùi Quốc Khải…

Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hàng mang nét nghệ thuật của triều Lê và Nguyễn. Những nét kiến trúc độc đáo ấy được xây dựng khéo léo bởi những bàn tay tài hoa.

Cho đến ngày nay Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn là địa điểm du lịch của rất nhiều người, vừa nhớ về cội nguồn, vừa khấn bái, vừa tìm hiểu được lịch sử của cha ông ta. Nơi đây còn được xem là tâm điểm của Hà Nội, của thủ đô nghìn năm văn hiến.

Bài làm 12

“Thành phố Hồ Chí Minh quê ta đã viết nên thiên anh hùng ca, thiên anh hùng ca ngàn năm sáng chói lưu danh đến muôn đời…”. Lời ca ngân, lên trong mỗi người niềm tự hào được là công dân của thành phố anh hùng mang trong mình bao dấu ấn lịch sử thiêng liêng suốt hành trình đấu tranh oai hùng của dân tộc để: “Việt Nam ta lại gọi tên mình”. Từ thành phố này, tại Bến Nhà Rồng, Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước vì thế trong hơn sáu mươi tỉnh thành chỉ duy nhất nơi đây được vinh dự mang tên Bác kính yêu. Bến Nhà Rồng được xây dựng thành bảo tàng Hồ Chí Minh và là địa chỉ thân thương với nhân dân cả nước nói chung, nhân dân thành phố nói riêng.

Ngót một thế kỉ rưỡi (150 năm), trải qua bao biến cố thăng trầm, Bến Nhà Rồng vẫn sừng sững uy nghi tại số 1 đường Nguyễn Tất Thành, quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh (xưa là đường Trịnh Minh Thế). Ngay một cửa ngõ thương cảng sầm uất nhất nước – cảng Sài Gòn. Bến Nhà Rồng nằm ngay trung tâm, trước mặt là bến Bạch Đằng lộng gió. Khi thành phố lên đèn cả khu vực lung linh huyền ảo góp phần tô điểm thành phố thêm lộng lẫy, xứng danh là “hòn ngọc của Viễn Đông”.

Bến Nhà Rồng hiện nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, là một chi nhánh nằm trong hệ thống các bảo tàng và di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước. Nơi đây, trước ngày 30/4/1975 là trụ sở của Tổng Công ty Vận tải Hoàng đế (Messageries Impériales) – một trong những công trình đầu tiên do thực dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gòn. Tòa nhà được xây dựng từ giữa năm 1862 đến cuối năm 1863 hoàn thành với lối kiến trúc phương Tây nhưng trên nóc nhà gắn hai con rồng châu đầu vào mặt trăng theo mô típ “lưỡng long chầu nguyệt”, một kiểu trang trí quen thuộc của đền chùa Việt Nam. Với kiến trúc độc đáo đó nên Tổng Công ty Vận tải Hoàng Đế được gọi là Nhà Rồng và bến cảng mang tên Bến cảng Nhà Rồng. Năm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại, thương cảng Sài Gòn được chuyển giao cho chính quyền miền Nam Việt Nam quản lí, họ đã tu sửa lại mái ngói ngôi nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng mới với tư thế quay đầu ra ngoài. Với diện tích gần 1500m² xây dựng làm tòa nhà, diện tích còn lại là hoa viên tràn ngập màu xanh lá với không khí thoáng mát, khung cảnh thơ mộng bao gồm trên 400 gốc cây quý từ khắp mọi miền của đất nước hội tụ về đây khoe sắc tỏa hương. Ta bồi hồi khi ngắm gốc cây Tân Trào của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, gốc cây bồ đề của Tổng thống Ấn Độ.

Thời gian trôi qua càng ngày Bến Nhà Rồng càng trở thành địa chỉ được lưu giữ những sự kiện trọng, đại gắn liền với vận mệnh dân tộc. Ngày 5/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành với hai bàn tay trắng đã bước xuống con tàu Latouche Treville trong cuộc hành trình “30 năm ấy chân không nghỉ”: Người đi khắp hóng cờ châu Mĩ, châu Phi Những đất tự do những trời nô lệ.

Với lịch sử thiêng liêng của Bến Nhà Rồng, nơi đây đã lưu truyền biết bao tư liệu, hiện vật quý giá giúp mọi người hiểu rõ hơn về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của vị lãnh tụ thiên tài, người cha già kính yêu của dân tộc – Hồ Chí Minh. Qua nhiều lần chỉnh lí về cơ bản bảo tàng xây dựng thành 12 phòng trưng bày khoảng 170 tư liệu, hình ảnh, hiện vật. Nếu ai đã từng đến với bảo tàng đều lặng người xúc động khi được nhìn tận mắt chứng kiến những kỉ vật về Người.

Bảo tàng là một trong những địa chỉ để nhân dân đến nghiên cứu, giao lưu, tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác. Hằng năm, bảo tàng thu hút hàng triệu du khách trong nước và ngoài nước. Bến Nhà Rồng, bảo tàng Hồ Chí Minh đã vinh dự được chọn làm biểu tượng của thành phố nhân ngày kỉ niệm 300 năm Sài Gòn Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày ngày lớp lớp các thế hệ con cháu vẫn đến cúi đầu trước tượng đài của Người thắp nén nhang để bày tỏ lòng thành kính và tri ân con người đẹp nhất mọi thời đại của dân tộc:

“Xin nguyện cùng
Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.”

Bài làm 13

Đà Lạt – đối với tôi đây là một thành phố rất đáng để đặt chân đến, là thành phố đáng sống và không biết từ khi nào mà tôi đã phải lòng Đà Lạt đến thế. Thành phố chìm trong sương mờ này mang những nét đẹp dịu dàng, thanh lịch mà ta khó có thể bắt gặp ở bất cứ một nơi nào khác trên mảnh đất Việt Nam. Nhắc đến Đà Lạt, dù là người mới chỉ đến lần đầu cũng có biết bao điều muốn chia sẻ, muốn bộc bạch, và đặc biệt sẽ kể về Đà Lạt bằng sự say sưa nhất.

Từ Bắc vào Nam, dọc theo dải đất hình chữ S này có biết bao danh lam thắng cảnh, vô vàn những mảnh đất xinh đẹp được thiên nhiên ưu ái nhưng đối với tôi, Đà Lạt là một trong những nơi được sự ưu ái, thiên vị nhất của mẹ thiên nhiên. Là một thành phố nhỏ của tỉnh Lâm Đồng, một thành phố trên cao nguyên Lâm Viên của vùng Tây Nguyên Việt Nam. Vị trí của thành phố nằm trên cao nguyên nên có độ cao khoảng 1500m so với mực nước biển, với diện tích hơn 39000km2 giáp các huyện Lạc Dương, Đơn Dương, Lâm Hà, Đức Trọng. Đà Lạt nổi tiếng là thành phố của hồ và thác với khoảng 16 hồ lớn nhỏ, trong đó nổi tiếng nhất là hồ Hồ Xuân Hương nằm ở trung tâm thành phố.

Thành phố Đà Lạt nằm ở một vị trí đặc biệt tạo nên một khí hậu đặc biệt khác hẳn với các miền xung quanh, nơi đây có khí hậu miền núi ôn hòa, mát mẻ quanh năm, được bao bọc trong những rừng thông xanh bất tận tạo nên không khí trong lành, thoáng đãng rất thích hợp cho nghỉ dưỡng, tham quan và du lịch trải nghiệm. Nhiệt độ trung bình ở đây luôn ở ngưỡng dưới 20 độ C ngay cả trong những tháng nóng nhất, ở Đà Lạt thời tiết sương mù rất phổ biến, có đến 80 – 85 ngày trong một năm có sương mù, trung bình mỗi tháng có 4 – 5 ngày xuất hiện sương mù dày, có lẽ đây chính là lý do Đà Lạt được mệnh danh là thành phố sương mờ. Đà Lạt còn nổi tiếng là thành phố hoa, bởi nơi đây thích hợp cho rất nhiều loại hoa, sự đa dạng và phong phú của các loại hoa Đà Lạt đã giúp cho thành phố này có điều kiện tổ chức các Lễ hội hoa, Festival hoa với quy mô ngày càng mở rộng, thu hút sự quan tâm của khách du lịch cả trong và ngoài nước. Không chỉ có hoa, Đà Lạt còn là xứ sở của các loại trái cây, nhiều loại quả là đặc sản của nơi đây như dâu tây, hồng, mận, đào,…

Nhắc đến Đà Lạt mà không nhắc tới con người nơi đây thì quả là thiếu sót. Con người Đà Lạt rất thanh lịch, họ mang trong mình nhịp sống chậm rãi, an yên với bản chất rất nồng hậu, mến khách, chẳng vì thế mà ai đến với mảnh đất này cũng dùng những ngôn từ đẹp đẽ nhất để nói về Đà Lạt. Nét phóng khoáng và sự mến khách của con người nơi đây là ấn tượng đẹp cũng như là sợi dây níu kéo trong lòng người du lịch. Từ lâu, Đà Lạt đã trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng nằm trong top đầu những điểm du lịch của Việt Nam, mỗi năm nơi đây thu hút hàng triệu lượt khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, nghỉ dưỡng.

Du lịch tại Đà Lạt ngày càng chuyển mình mạnh mẽ, nhiều những nhà hàng, khách sạn cao cấp mọc lên, các công trình tham quan du lịch cũng nhiều hơn, tạo nên một diện mạo mới cho Đà Lạt, một phong cách rất Châu Âu mà người ta hay gọi là “Paris thu nhỏ”. Ở Đà Lạt, khó để nhớ hết những địa điểm du lịch, tuy nhiên đã đến nơi đây không thể bỏ qua những địa điểm nổi tiếng như Hồ Xuân Hương – trái tim của thành phố với quang cảnh rừng thông bao quanh, bãi cỏ, vườn hoa rất thơ mộng, trữ tình. Trường cao đẳng Sư phạm Đà Lạt được hội kiến trúc sư thế giới công nhận là một trong 1000 công trình độc đáo của thế giới trong thế kỷ 20, hay Dinh Bảo Đại – một dinh thự đẹp đẽ, trang nhã gắn liền với các tiểu cảnh tạo nên công trình đồ sộ. Thung lũng tình yêu là nơi giới trẻ không thể bỏ qua, sở hữu vẻ đẹp thơ mộng, sông nước hữu tình, ngàn hoa khoe sắc và không khí trong lành đã cuốn hút mọi du khách thả mình vào khung cảnh lãng mạn nhất. Cuối cùng là núi Lang Biang – biểu tượng huyền thoại của câu chuyện tình yêu đẹp nhất xứ sở mờ sương, một ngọn núi sừng sững đầy kiêu sa nhưng gần gũi.

Với lịch sử đã hơn một thế kỷ, Đà Lạt đã trải qua biết bao biến động thăng trầm, nhiều những cuộc kiến thiết và đổi mới nhưng vẫn giữ nguyên được nét tính cách duyên dáng, thanh lịch nguyên sơ. Có thể nói, Đà Lạt như một bông hoa đẹp giữa một rừng hoa của Việt Nam, là người đẹp mà trải qua thời gian càng đẹp hơn, càng được nhiều người mến mộ hơn.

Bài làm 14

Chùa Một Cột là công trình kiến trúc độc đáo gắn liền với những giá trị về văn hóa, lịch sử của dân tộc. Chùa Một Cột không chỉ được đánh giá là ngôi chùa có kiến trúc nghệ thuật độc nhất ở Việt Nam cũng như Châu Á mà còn được biết đến là điểm đến tâm linh, trở thành biểu tượng văn hóa ngàn năm của thủ đô Hà Nội.

Chùa Một Cột còn có tên gọi khác là Diên Hựu Tự hoặc Liên Hoa Đài, ngôi chùa nổi tiếng bởi kiến trúc xây dựng rất độc đáo, toàn bộ chùa được xây dựng trên một cột trụ bằng đá cao khoảng 4m. Ngôi chùa được khởi công xây dựng vào thời Lý trên đất thôn Thanh Bảo thuộc huyện Quảng Đức và nằm ở phía Tây của Hoàng Thành Thăng Long xưa. Ngày nay chùa nằm ở phố Chùa Một Cột, cạnh Quảng trường Ba Đình – Lăng Chủ Tịch.

Chùa Một Cột được xây dựng dựa theo cảm hứng từ giấc mộng của vua Lý Thái Tông. Trong mơ vua thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên đài hoa sen và được mời lên đài. Khi tỉnh dậy vua kể lại giấc mơ cho triều thần nghe và được nhà sư Thiên Tuế khuyên nên xây chùa. Vì vậy vào mùa đông năm 1049 vua Lý Thái Tông cho xây dựng chùa. Để tạo nên chùa Một Cột Vua đã cho dựng một cột đá giữa hồ và xây đài hoa sen có tượng Bồ Tát Quan Thế âm ở trên.

Sau khi dựng chùa, vua Lý Anh Tông thường lui tới cầu phúc và làm việc thiện vậy nên ít sau đó hoàng hậu mang thai sinh ra một hoàng tử tuấn tú. Nhờ sự ra đời thần kì của hoàng tử mà vua đã coi đó là ân huệ mà trời đất ban cho nên đã cho xây một ngôi chùa khác bên cạnh chùa một cột để tạ ơn. Cụm di tích này được đặt tên Diên Hựu Tự với mong muốn “phước lành dài lâu”.

Vì muốn trùng tu lại chùa nên năm 1105 vua Lý Nhân Tông cho người xây dựng lại và dựng thêm hai tháp lợp sứ trắng trước sân. Ba năm sau Nguyên Phi Ỷ Lan lệnh cho người đúc “Giác thế chung” để thức tỉnh lòng thế nhân.

Chùa Một Cột là di tích lịch sử có giá trị nghệ thuật và được đánh giá cao không chỉ trong nước mà còn trên thế giới. Thật vậy, vào năm 1962 chùa đã được công nhận là Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật Quốc gia và đến năm 2012 chùa Một Cột đã xác lập kỷ lục là “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Châu Á” bởi tổ chức Kỷ lục châu Á.

Chùa Một Cột được mệnh danh là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo một không hai bởi chùa Một Cột mang dáng vẻ của một đóa sen lớn đang vươn mình khỏi mặt nước, hình tượng bông sen gợi cho người ta sự thuần khiết cao quý, sáng trong thuần túy. Toàn bộ không gian chùa được đặt trên một trụ đá cao 4 mét do hai khối đá cấu thành hợp với nhau có đường kính 1, 2 mét dưới hồ Linh Chiểu. Ao nước phía dưới chùa được bao quanh bởi lan can làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh với những họa tiết hình khối. Mái chùa lợp ngói cổ với theo kiểu hình đao cong vút và trên đỉnh đắp hình rồng thể hiện sức mạnh thần thánh, quyền uy lẫm liệt.

Chùa Một Cột đã trở thành một trong những biểu tượng mang đậm tính dân tộc, là địa điểm tham quan nổi tiếng của thủ đô Hà Nội. Chùa không những nổi tiếng trong nước mà còn được rất nhiều khách tham quan, du lịch quốc tế tìm đến để tham quan, thưởng thức nét đẹp độc đáo đậm chất văn hóa bản sắc dân tộc.

Bài làm 15

Thành phố Hồ Chí Minh là đầu cầu kinh tế của nước nhà, luôn tráng lệ và nhộn nhịp cùng sự hối hả. Nằm trong lòng thành phố vẫn hiện hữu những công trình kiến trúc ghi dấu của một thời lịch sử anh hùng, nơi để người ta tưởng nhớ và thêm biết ơn cuộc sống hiện tại. Một trong số các di tích kiến trúc quan trọng đó phải kể đến Dinh Độc Lập, đây là một công trình khác đồ sộ, tọa lạc tại số 106 đường Nguyễn Du thuộc quận Một.

Dinh Độc Lập mang nhiều cái tên, ứng với mỗi tên là một giai thoại lịch sử khác nhau đi kèm. Khi thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn đã lên kế hoạch xây dựng Dinh thống đốc Nam Kỳ và tới năm 1868 được hoàn thành và mang tên Dinh Norodom. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Ngô Đình Diệm nhận lại Dinh và đổi tên thành Dinh Độc Lập, cho xây dựng lại một Dinh mới hoành tráng và kiên cố hơn sau sự kiện Dinh bị đánh sập cánh trái. Công trình đã hoàn thành vào mùa thu năm 1966, dưới sự chỉ đạo của kỹ sư Phan Văn Điển.

Dinh Độc Lập được bao quanh bởi những hàng cây xanh mướt. Trước tòa nhà chính là một khoảng sân lớn thiết kế ấn tượng bởi hàng cỏ xanh mướt tạo thành khối tròn, bao quanh là con đường vòng có thể đi từ hai bên khi bước qua cánh cổng Dinh. Với những vật liệu xây dựng chủ yếu trong nước, Dinh là một công trình to lớn do chính người Việt xây dựng, điêu khắc, trang trí, thiết kế bố cục và sắp xếp nội thất. Dinh Độc Lập gồm ba tầng chính. Bước vào tới Dinh, người ta không chỉ ngỡ ngàng vì lối kiến trúc hiện đại mà còn trầm trồ bởi những chi tiết tinh tế của từng căn phòng. Ở tầng một gồm có các phòng: Họp nội, đại yến, khánh tiết. Căn phòng lớn nhất với hai hàng ghế xếp dài đối diện nhau là phòng khánh tiết, phòng được trang trí bởi những hoa văn vô cùng sang trọng phong cách pha trộn giữa Tây Âu và Đông Âu, sử dụng để tiếp khách. Phòng họp đầy ắp những chiếc ghế lưng tựa xung quanh bàn hình bầu dục tạo một không khí trang nghiêm, trên bàn là những chiếc micro đứng. Phòng đại yến và các phòng khác cũng được trang trí rất kỳ công. Điều đặc biệt là dù ở phòng nào thì các kiến trúc sư cũng không quên sự góp mặt của các loại cỏ cây hoa lá, giúp không khí thêm phần mát lành và tạo sức sống cho không gian. Tầng hai là nơi làm việc của các lãnh đạo cấp cao của quốc gia. Các phòng lớn như phòng trình quốc thư nơi các đại sứ tại Sài Gòn trình ủy nhiệm thư cho Tổng thống trước năm 1975. Căn phòng được thiết kế mang đậm phong cách Nhật với kỹ thuật sơn mài độc đáo… Ghế của Tổng thống có tay tựa hình rồng và đặt cao hơn các ghế khác. Đối diện là ghế của thượng khách. Những chiếc ghế còn lại khắc hình “phụng” hoặc chữ “thọ”. Phòng còn lại được đặt ngang nhau trang trí bởi hai tủ sơn mài “mai lan”, “cúc trúc” thực hiện năm 1966. Những căn phòng của tầng hai là phòng làm việc của Tổng thống và phó Tổng thống lúc bấy giờ. Tầng ba được thiết kế có phần phóng khoáng hơn phục vụ cho mục đích giải trí, thư giãn và tích lũy tri thức. Bên ngoài đối diện với phần mặt chính diện của tòa nhà là những bàn bi-a cùng chiếc piano khá lớn. Khu trò chuyện uống nước nằm liền kề với phòng chiếu phim và phòng phu nhân Tổng thống tiếp khách. Ở những năm 60 của thế kỷ XX, sự xuất hiện của phòng chiếu phim là một bước tiến của hiện đại, bên cạnh đó là chiếc rèm kéo màu đỏ tự động. Không gian nơi phòng chiếu phim còn là sân khấu biểu diễn nghệ thuật, văn nghệ. Những bức tranh trừu tượng cũng được đặt tại phòng tiếp khách của phu nhân Tổng thống, điểm nhấn khác biệt ở căn phòng này là những hoa văn mang phần mềm mại và nữ tính hơn những căn phòng khác. Ở bên cạnh đó là thư viện đầy ắp cuốn sách đủ thể loại khác nhau như sách giáo dục, sách chính trị, thống kê, được xếp gọn vào những chiếc tủ gỗ có mặt kính để bảo quản sách. Khu sân thượng là nơi có khoảng trống lớn hòa với thiên nhiên. Có một chiếc trực thăng vẫn nằm nguyên ở một góc sân thượng hiện nay vẫn còn đó, dưới ánh nắng của Sài Gòn trông thật khác biệt.

Và còn nhiều căn phòng khách tại Dinh Độc Lập chờ đợi được tham quan và chiêm ngưỡng. Những căn hầm bí mật nơi có lắp máy lạnh và quạt thông gió, nơi đặt thiết bị tiên tiến. Những chiếc đèn chùm lung linh hiện lên mặt sàn đá hoa cương bóng loáng. Những thiết kế đặc biệt của từng góc của Dinh Độc Lập vẫn còn giữ nguyên vẹn giá trị cho đến tận ngày nay.

Dinh Độc Lập không chỉ là một công trình kiến trúc độc đáo mà đó còn là một minh chứng, chứng nhân lịch sử. Dinh đã cùng đất nước và nhân dân đi qua biết bao thăng trầm của lịch sử Việt Nam. Chính sự kiên cố của Dinh đã để lại cho con cháu muôn đời những bài học quý giá về tình yêu nước và sự kiên cường trong cuộc sống.

Bài làm 16

Hồ Tây là hồ nước tự nhiên nằm ở phía Tây Bắc nội thành Hà Nội với diện tích khoảng 500ha, có đường vòng quanh hồ dài gần 20km. Ngành địa lý lịch sử đã chứng minh, Hồ Tây là hồ ngoại sinh, có dạng lòng chảo, là một đoạn của sông Hồng xưa trong quá trình ngưng đọng lại sau khi sông đổi dòng chảy. Hồ Tây trước đây còn có các tên gọi khác như Đầm Xác Cáo, Hồ Kim Ngưu, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Đoài Hồ. Mỗi tên gọi đều gắn với sự tích về nguồn cội của hồ Tây huyền thoại.

Sách Tây Hồ chí ghi rằng, Hồ Tây có từ thời Hùng Vương, bấy giờ nơi đây là một bến nằm giáp sông Hồng thuộc động Lâm Ấp, nên được gọi là bến Lâm Ấp thuộc thôn Long Đỗ. Ở vào thời Hai Bà Trưng, bến này thông với sông Hồng, bao bọc quanh hồ là rừng cây gồm nhiều loại thực vật chính như tre ngà, bàng, lim, lau sậy, gỗ tầm cùng một số loài thú quý hiếm sinh tồn.

Phía Tây hồ Tây ngày nay vẫn còn dấu vết nhiều làng cổ. Mỗi ngôi làng ở đây đều ít nhiều gắn với một huyền tích lịch sử. Làng Nghi Tàm, quê hương nhà thơ “Bà huyện Thanh Quan”. Làng Xuân Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng. Làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ bà tổ nghề dệt lĩnh. Làng Thụy Khuê có chùa Bà Ðanh. Làng Nhật Tân với vườn hoa đào nổi tiếng. Có một nơi mà nhiều du khách muốn tới thăm là chùa Trấn Quốc. Chùa Trấn Quốc nằm trên bán đảo nhỏ giữa mênh mang sóng nước ngay bên đường Thanh Niên, con đường đẹp ngăn cách giữa hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, có từ thế kỷ VI thời Lý Nam Đế. Hoà Thượng Thích Thanh Nhã, trụ trì chùa Trấn Quốc cho biết: “Vào năm 541-548 khởi đầu được gọi là chùa Khai Quốc, chùa được xây dựng ngoài bãi sông Hồng, sau này vào đời Hậu Lê ( thế kỷ 17) thì chuyển vào đây. Trước đây nơi này được gọi là bãi cá vàng, mà vua chúa thời xưa du xuân,du thuỷ, sau đó các vị cao tăng về đây tu hành. Ngôi chùa tính đến nay có lịch sử 1440 năm. Cư dân sinh sống ở đây rất thưa thớt, họ sống chủ yếu bằng nghề săn bắt thú rừng, tôm, cua, cá và trồng tỉa cây cối. Bên cạnh đó thì bờ phía Đông có Nha Lâm Động (nay là phố Yên Ninh, Hòe Nhai), bờ phía Nam có Bình Sa Động (thời Lý đổi là Giáp Cơ Xá (nay thuộc quận Hoàn Kiếm).

Ở thủ đô Hà Nội, hồ Tây là khu vực có hệ thống di sản, di tích đậm đặc. Chỉ riêng khu vực quanh hồ Tây hiện còn có hơn 20 ngôi đình, đền, chùa được xếp hạng với nhiều di tích nổi tiếng. Cứ mỗi khi xuân về, những di tích ấy thu hút hàng vạn khách thập phương trong và ngoài nước đến vãn cảnh, tham quan lễ chùa. Với lợi thế vị trí độc đáo, hồ Tây gần như bao trọn không gian văn hóa lịch sử gắn liền với nhiều truyền thuyết, các công trình nghệ thuật, kiến trúc, gắn với lịch sử ngàn năm thủ đô Hà Nội. Đây cũng là lý do mà nhiều du khách tới đây tìm hiểu khám phá hồ Tây. Với nhiều du khách, điều thích thú nhất là được tham quan hồ Tây bằng xe điện chạy quanh hồ. Ông Nguyễn Quang Lộc, nhà ở Quận Hai Bà Trưng cho biết: “Trước đây tôi chỉ nghe nói hồ Tây rộng, chứ chưa đi hết. Nhưng nay đi xe điện quanh hồ tôi biết thêm nhiều điều, hiểu thêm các làng nghề, các di tích, đình, chùa xung quanh hồ Tây”.

Ở thủ đô Hà Nội, hồ Tây là khu vực có hệ thống di sản, di tích đậm đặc. Chỉ riêng khu vực quanh hồ Tây hiện còn có hơn 20 ngôi đình, đền, chùa được xếp hạng với nhiều di tích nổi tiếng. Cứ mỗi khi xuân về, những di tích ấy thu hút hàng vạn khách thập phương trong và ngoài nước đến vãn cảnh, tham quan lễ chùa. Với lợi thế vị trí độc đáo, hồ Tây gần như bao trọn không gian văn hóa lịch sử gắn liền với nhiều truyền thuyết, các công trình nghệ thuật, kiến trúc, gắn với lịch sử ngàn năm thủ đô Hà Nội. Đây cũng là lý do mà nhiều du khách tới đây tìm hiểu khám phá hồ Tây. Với nhiều du khách, điều thích thú nhất là được tham quan hồ Tây bằng xe điện chạy quanh hồ. Ông Nguyễn Quang Lộc, nhà ở Quận Hai Bà Trưng cho biết: “Trước đây tôi chỉ nghe nói hồ Tây rộng, chứ chưa đi hết. Nhưng nay đi xe điện quanh hồ tôi biết thêm nhiều điều, hiểu thêm các làng nghề, các di tích, đình, chùa xung quanh hồ Tây”.

Hồ Tây ngày nay còn là lá phổi xanh của thành phố. Hồ Tây không chỉ đẹp bởi mặt nước xanh mênh mông, mà còn là vẻ đẹp thơ mộng bởi sắc tím của hoa bằng lăng, vẻ rực rỡ của những cánh hoa phượng hồng mỗi độ hè về. Mặt nước hồ luôn phảng phất những làn gió mát, khiến tâm hồn con người thêm thư thái. Với không gian như thế, hồ Tây thực sự là nơi đến thư giãn của nhiều người Hà Nội.

Từ chốn rừng rậm, đầm lầy hoang hóa, qua công lao khai khẩn xây dựng của bao thế hệ, trong đó có sự đóng góp rất lớn của một số vương phi các triều đại, Hồ Tây đã trở thành một thắng cảnh văn hóa – du lịch nổi tiếng của Kinh đô Thăng Long – Hà Nội. Vì vậy chúng ta hãy chung ta cùng bảo tồn và phát triển thắng cảnh này.

Bài làm 17

“Mặt Hồ Gươm vẫn lung linh mây trời, càng tỏa mát hương hoa thơm Thủ đô…”. Nhắc đến Hà Nội là nhắc đến hình ảnh Hồ Gươm trong xanh và bóng Tháp Rùa nghiêng nghiêng soi dáng. Hồ Gươm cùng quần thể kiến trúc của nó đã trở thành một biểu tượng đẹp đẽ và thiêng liêng về Hà Nội – trái tim hồng của cả nước.

Hồ Gươm đã tồn tại từ rất lâu. Cách đây khoảng 6 thế kỷ, theo những địa danh hiện nay, hồ gồm hai phần chạy dài từ phố Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt tới phố Hàng Chuối, thông với sông Hồng. Nước hồ quanh năm xanh biếc nên hồ Gươm cũng được gọi là hồ Lục Thuỷ.

Vào thế kỷ XV, hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm. Sự kiện ấy gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng của vị vua khai triều nhà Hậu Lê – người anh hùng của khởi nghĩa Lam Sơn chống lại giặc Minh (1417 – 1427), Lê Lợi. Truyền thuyết kể rằng khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, có người dân mò được một lưỡi gươm, sau đó chính ông nhặt được một cái chuôi ở trong rừng. Khi lưỡi gắn vào chuôi gươm thì thân gươm ánh lên hai chữ “Thuận Thiên” – “Thuận theo ý trời”. Gươm báu này đã theo Lê Lợi trong suốt thời gian kháng chiến chống giặc Minh. Khi lên ngôi về đóng đô ở Thăng Long, trong một lần nhà vua đi chơi thuyền trên hồ Lục Thuỷ, bỗng một con rùa xuất hiện. Rùa vươn đầu cất tiếng nói: “Xin bệ hạ hãy hoàn lại gươm cho Long Quân”. Lê Thái Tổ hiểu ra sự việc bèn rút gươm khỏi vỏ, giơ gươm ra thì gươm bay về phía con rùa. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ, và từ đó hồ Lục Thuỷ có tên gọi mới là hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) hay hồ Gươm. Chính truyền thuyết đặc sắc này đã khẳng định tấm lòng yêu chuộng hòa bình, ghét chiến tranh của người dân Thăng Long – Hà Nội nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Câu chuyện này đã được nhấn mạnh trong ngày lễ Hà Nội đón nhận danh hiệu “Thành phố Vì hòa bình”

Nên Xem:  Bài văn Nghị luận xã hội về tinh thần tự học lớp 9 của học sinh và giới trẻ

Sau đó, cũng vào thời Lê, hồ còn được dùng làm nơi tập luyện của thuỷ quân nên có lúc được gọi là hồ Thuỷ Quân.

Hồ Hoàn Kiếm là một thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội. Quanh hồ trồng nhiều loại hoa và cây cảnh. Đó là những hàng liễu rủ thướt tha, những nhành lộc vừng nghiêng nghiêng đổ hoa soi bóng dưới lòng hồ. Giữa hồ có tháp Rùa, cạnh hồ có đền Ngọc Sơn có “Đài Nghiên Tháp Bút chưa sờn”… Hình ảnh hồ Gươm lung linh giống như một tấm gương xinh đẹp giữa lòng thành phố đã đi vào lòng nhiều người dân Hà Nội. Người dân Hà Nội sống ở khu vực quanh hồ có thói quen ra đây tập thể dục vào sáng sớm, đặc biệt là vào mùa hè. Họ gọi các khu phố nằm quanh hồ là Bờ Hồ.

Không phải là hồ nước lớn nhất trong Thủ đô, song với nguồn gốc đặc biệt, hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với cuộc sống và tâm tư của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một quận với những khu phố cổ chật hẹp, đã mở ra một khoảng không đủ rộng cho những sinh hoạt văn hóa bản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp. Và hơn thế, hồ gắn với huyền sử, là biểu tượng khát khao hòa bình (trả gươm cầm bút), đức văn tài võ trị của dân tộc (thanh kiếm thiêng nơi đáy hồ và tháp bút viết lên trời xanh). Do vậy, nhiều văn nghệ sĩ đã lấy hình ảnh Hồ Gươm làm nền tảng cho các tác phẩm của mình. Nhà thơ Trần Đăng Khoa từng viết:

“Hà Nội có Hồ Gươm

Nước xanh như pha mực

Bên hồ ngọn Tháp Bút

Viết thơ lên trời cao”

Và như thế, Hồ Gươm sẽ mãi sống trong tiềm thức mỗi người dân Thủ đô nói riêng và người dân cả nước nói chung như một biểu tượng thiêng liêng về lịch sử và truyền thống văn hóa dân tộc.

Bài làm 18

Những năm gần đây, ngành du lịch tại Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ. Trên khắp đất nước, có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An, Mỹ Sơn… Trong đó, Động Phong Nha là điểm đến thu hút đông đảo du khách cả trong và ngoài nước. Được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới, Động Phong Nha đang nổi bật trong bức tranh du lịch Việt Nam.

Động Phong Nha tọa lạc trong quần thể hang động thuộc khối núi đá vôi Kẻ Bàng, thuộc xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Có hai con đường dẫn đến Động Phong Nha: nếu bạn muốn đi đường thuỷ, hãy rem sông Gianh đến gặp sông Son, sau đó đi theo sông Son để vào động. Nếu chọn đường bộ, đi theo tỉnh lộ số 2 đến bến sông Son (khoảng 20 cây số). Bằng cách nào đi chăng nữa, bạn phải sử dụng xuồng máy hoặc chèo đò từ bến sông Son vào cửa hang Phong Nha. Xuồng máy mất khoảng nửa giờ để đến cửa hang, trên đó bạn có thể thưởng thức dòng sông xanh thẳm, nhìn ngắm khối núi đá vôi trùng điệp, xóm làng và nương ngô rải rác hai bên bờ sông.

Phong Nha chia thành hai phần: động khô ở độ cao 200m, nơi có những vòm đá trắng vân nhũ và nhiều cột đá óng ánh màu xanh ngọc. Động nước vẫn còn một con sông dài chảy liên tục. Dù hiện tại động khô đã mất đi dòng sông ngầm xưa kia, nhưng vẫn lưu giữ vẻ đẹp ấn tượng. Động nước với con sông trong và sâu là điểm thu hút lớn cho du khách. Để khám phá động nước, bạn cần sử dụng thuyền và mang theo đèn, đuốc để chiếu sáng, đặc biệt khi đi vào phần hang sâu hơn, ánh sáng giảm đi. Mặc dù một số khu vực trong hang đã có đèn điện, nhưng để thực sự hiểu rõ vẻ đẹp của 1500 mét hang, việc mang theo đèn là không thể thiếu.

Động nước là điểm thu hút nhiều du khách hơn cả. Với con sông dài, việc sử dụng thuyền là bắt buộc. Để tham quan bên trong động, du khách cần chuẩn bị đèn và đuốc để tạo ánh sáng, đặc biệt là khi khám phá phần hang sâu, nơi ánh sáng tự nhiên giảm đi. Mặc dù có đèn điện trong một số khu vực, nhưng để thực sự trải nghiệm vẻ đẹp 1500 mét hang, việc mang theo đèn là không thể thiếu.

Bài làm 1

Khi bước qua khu chợ Đồng Xuân với sự ồn ào không ngừng, tôi thảnh thơi bước dạo trên cầu Long Biên, nhìn ra dòng sông Hồng hùng vĩ, êm đềm trôi về phía biển. Gió thổi nhẹ nhàng. Tôi hít thở sâu làn gió mát vào ngực, những cơn gió này đã từng vuốt ve cơ thể tôi khi tôi còn là một đứa trẻ, làm tôi trở nên lớn lên trong những kí ức ngọt ngào. Bầu trời quá xanh, không khí quá trong lành, những hồi ức xưa kia bỗng ùa về, làm tâm hồn tôi như đang lưu lạc trên dòng cảm xúc. Gia đình tôi ở phố Trần Nhật Duật, chỉ cần nhìn sang đối diện là con đê bao rợp cỏ mướt.

Ngày xưa, chỉ cần vượt qua đám cỏ cao khoảng 4 mét, ngay lập tức bạn sẽ bắt gặp một khung cảnh yên bình, thanh bình như ở nơi quê hương, hoàn toàn khác biệt so với cuộc sống nơi thành thị. Những bãi cỏ xanh mướt mở ra, những cái ao nhỏ quanh bờ rậm rạp với lưới tre đan, mâm xôi… Tiếng ca líu lo trên đầu, thỉnh thoảng gặp nhóm người đi câu cá. Vượt qua bãi cỏ là vành đê bao bao quanh, con đê nhỏ này được chăm sóc rất kỹ lưỡng với lớp đá làm kè. Từ đây, dòng sông Hồng hùng vĩ mở ra trước mắt, bãi cát vàng óng ả, nước sông đỏ như gạch cua, chảy êm đềm về hướng đông, ôm trọn, nuôi dưỡng một vùng đồng bằng phong phú.

Thời thơ ấu, mùa hè là thời kỳ yêu thích nhất của chúng tôi. Học nghỉ, chúng tôi tự do chơi đùa suốt ngày trong thế giới cổ tích. Sáng sớm, khi sương mơ vẫn ướt đầm bãi cỏ, tôi thức dậy và chạy tới đê, thư thả hít thở không khí trong lành. Buổi trưa nắng chang chang, tôi mang theo chai và đổ dế để tham gia các trò chơi như chọi thi, câu lươn, bắn chim, bẻ ngô non,… Chiều tới, cả đám rủ nhau đá bóng hoặc thả diều, sau đó quần nhau xuống sông tắm để giải nhiệt, cảm giác da thịt mát mịn ngay lập tức. Lần đầu tập bơi, tôi uống một cả sông, nhưng dường như nước Hồng vẫn còn hòa quyện trong máu tôi.

Buổi tối, sau khi ăn cơm, nhiều người trải chiếu trên đê để tận hưởng không khí mát mẻ. Gió thổi nhẹ, không gian yên bình, bầu trời trong xanh, trăng sao lấp lánh, cỏ rối thơm phảng phất, tiếng côn trùng hát ru tôi vào giấc ngủ giữa dòng cảm xúc thanh khiết và trong lành. Mùa hè còn là thời kỳ mưa lũ, những trận lũ từ phương Bắc đổ về làm cho sông Đà, sông Lô trở nên dữ tợn. Dòng lũ cuồn cuộn, dìm nghiến bãi bồi, đôi khi làm tan đê.

Chưa lâu trước, bãi giữa sông còn rộng lớn như tấm lưng con thuồng, nhưng chỉ trong một đêm, nó biến mất giữa dòng nước đỏ cuồn cuộn. Cả làng ven sông và thành phố phải đối mặt với lực lượng lũ mạnh mẽ. Khủng khiếp nhất là hai cơn lũ năm 1969, 1971, nước dâng mặt đê, đe dọa cuốn phăng cầu Long Biên và xoá sổ cả làng. Những ngày kinh hoàng ấy, ai đã đi thuyền quanh bãi ngập đều chứng kiến cảnh đau lòng với cây cầu lấp lánh giữa biển nước.

Mùa khô đến, nước rút đi để lộ vùng đất mỡ màng, phù sa vàng óng dưới ánh nắng chói lọi. Khi phủi nhẹ lớp cát bề mặt bị gió vờn khô, đất ẩm ướt như thịt, mềm mại, tơi bời. Nông dân bắt đầu vãi ngô, đậu, lạc… Mầm cây nảy nở mạnh mẽ chỉ sau một cuốc xới nhẹ. Cuối vụ, bắp ngô trắng như sữa, ngọt bùi, là món ngon không thể chối từ. Người ta đào hố hàm để lấy cát, và cát trôi xuống hố được dùng cho xây dựng trong thành phố.

Một khoảng thời gian dài, mỗi sáng tôi đánh xe bò đến cảng Phà Đen để lấy cát, rồi đi qua Lĩnh Nam, sang Bát Tràng, một làng nghề gốm sứ lâu đời.

Dù trời đã lạnh, những đứa trẻ của chúng tôi ở Quảng Bá, Nhật Tân vẫn phải làm việc chăm chỉ với gia đình để chuẩn bị cho tết, trồng cây đào, cây quất suốt năm.

Khi thời tiết ấm dần, mưa xuân bay lạnh như sương. Bờ sông trở nên sặc sỡ với sự nở rộ của hoa: hoa cúc vàng óng, lưu ly tím, đào hồng nồng nàn. Mọi người đi xem và chọn mua hoa, những bông đào hồng rực, những cành quất xinh đẹp, tạo nên bức tranh tươi sáng cho ngày tết.

Hà Nội phát triển ngày càng nhanh chóng, sôi động và bờ sông trở nên sôi động hơn với những khách sạn, biệt thự, chợ, và bến thuyền nổi bật. Sông Hồng vẫn là điểm đặc trưng của thành phố, chảy bên bờ cát Nghĩa Dũng, Phúc Xá, con đê bê tông nằm gọn giữa. Dòng sông vẫn mang theo phù sa, bồi đất mỗi ngày.

Với lịch sử hàng ngàn năm, khi vua Lý Thái Tổ quyết định chọn Hà Nội làm đô, họ có lẽ đã cảm nhận được giá trị của sông Hồng. Nhìn theo dòng nước, từ Long Biên, Thăng Long đến Chương Dương, bạn sẽ thấy sự duyên dáng của Hồng Hà như tà áo dài Hà Nội, giản dị nhưng kiêu sa, đẹp đẽ và mạnh mẽ.

Khi hoàng hôn buông xuống, thành phố bừng sáng với những đèn lấp lánh, còn sông Hồng dường như hát lên bài ca mênh mông.

Bài làm 20

Khu tâm linh chùa Bái Đính thuộc Quần thể Danh thắng Tràng An, cách thành phố Ninh Bình 15 km, nổi tiếng với nhiều kỷ lục như tượng Phật bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á và chuông đồng lớn nhất khu vực. Đây là nơi kết nối tâm linh qua hàng nghìn năm.

Với kiến trúc đồ sộ, những tượng Phật uy nghi và nghệ thuật tinh tế, Bái Đính nằm giữa cảnh quan hùng vĩ, tạo nên không gian thanh tịnh. Tam Quan cao 17 mét là biểu tượng của sự kết hợp giữa thiêng liêng và đời sống hàng ngày, nơi mọi người tìm đến Chân – Thiện – Mỹ.

Bước chân vào Bái Đính, bạn gặp Tam Quan trang nghiêm, sau đó là chuông đồng 36 tấn vang vọng khắp nơi, xua đi mọi phiền muộn. Hành lang 500 vị La Hán dẫn ta đến gần với cõi Phật, trong khi các tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, Phật Thích Ca Mâu Ni truyền đạt nét uy nguy và lòng nhân ái.

Khu chùa Bái Đính nằm bên sườn đồi xanh thẳm, toát lên vẻ đẹp cổ kính và huyền bí, tạo nên một bức tranh tâm linh tuyệt vời.

Chùa Bái Đính – Hành trình tìm về ‘địa linh – nhân kiệt’, nơi Quốc sư Nguyễn Minh Không từng thực hiện nghi lễ và tu hành. Dấu chân của ông lan tỏa khắp nơi, là nơi gắn bó với sự đoàn kết giữa tâm linh và cuộc sống hàng ngày.

Nguyễn Minh Không – Thánh y và học giả, sinh ra tại Gia Viễn, Ninh Bình, được coi là người có công lớn trong việc cứu chữa bệnh cho nhà vua Lý Thần Tông. Với bài đồng dao của lũ trẻ, ông trở thành hiện thân của sự tin tưởng và kỳ diệu.

Khi vua Lý Thần Tông bị bệnh nặng, tất cả các danh y đều thất bại trong việc chữa trị. Nguyễn Minh Không, đang tu hành tại chùa Bái Đính, được mời về Kinh đô và thực hiện kỳ công khi nhổ chiếc đinh khó nhất, chứng minh sức mạnh siêu nhiên của mình.

Chùa Bái Đính không chỉ là di tích lịch sử và tâm linh, mà còn là kết nối với câu chuyện huyền bí về Nguyễn Minh Không – một huyền thoại sống mãi trong lòng người dân.

Nguyễn Minh Không thực hiện ‘kỳ công’ khi chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông, làm mọi người kinh ngạc và tôn kính tài năng siêu phàm của ông. Từ đó, ông được phong làm Quốc sư, trở thành nhà cao tăng hàng đầu triều đại Lý.

Là ông tổ nghề đúc đồng, Nguyễn Minh Không đóng góp quan trọng vào sự nghiệp văn hóa Việt Nam. Ông chế tạo ‘Tứ đại khí’ gồm Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Phật Quỳnh Lâm, và vạc Phổ Minh. Câu chuyện về ông trở thành huyền thoại và nguồn cảm hứng lớn cho người Việt.

Bái Đính, nơi gắn bó với linh khí núi sông và tâm linh dân tộc, trở thành viên ngọc sáng lấp lánh trong lòng Việt Nam. Phong cảnh kỳ vĩ và những câu chuyện huyền bí về Nguyễn Minh Không kết hợp tạo nên một bức tranh tâm linh và văn hóa độc đáo.

Với sự huyền bí và tâm linh đặc sắc, Bái Đính không chỉ là di tích lịch sử mà còn là biểu tượng của lòng tin và truyền thống văn hóa sâu sắc của dân tộc Việt Nam, được xây dựng và duy trì qua hàng ngàn năm.

Bài làm 21

Chùa Thiên Mụ, ngôi chùa cổ kính nằm trên đồi Hà Khê, tạo nên bức tranh tâm linh tuyệt vời với sông Hương uốn lượn bên dưới. Được xây dựng từ thế kỷ 17, chùa là điểm đến hấp dẫn ở Huế, giữ lưu vực linh khí và nét đẹp lịch sử lâu dài của vùng đất này.

Chùa Thiên Mụ, hay còn được gọi là Linh Mụ Tự, bắt nguồn từ một câu chuyện thần bí về tiên nhân xuất hiện và dự báo về sự hiện diện của chân chúa. Ngôi chùa đã trải qua nhiều lần tu bổ, mở rộng dưới thời các chúa Nguyễn, làm nổi bật hơn với tháp Phước Duyên được xây dựng dưới triều vua Thiệu Trị.

Trải qua thời gian và những thách thức của thiên nhiên, Chùa Thiên Mụ vẫn giữ vững vẻ đẹp và sự linh thiêng. Năm 1907, dưới triều vua Thành Thái, chùa đã được trùng tu và bảo tồn, khắc phục những hậu quả của cơn bão năm 1904, giữ cho nét cổ kính và trang nghiêm của ngôi chùa không mất đi.

Chùa Thiên Mụ, bao quanh bởi khuôn viên xanh mát và tường đá lịch sự, là biểu tượng kiến trúc độc đáo của Huế. Với những công trình như bến thuyền, cổng tam quan, đình Hương Nguyện, tháp Phước Duyên và những điện tự xưa, chùa lưu giữ không gian linh thiêng và tâm huyết lịch sử.

Chùa Thiên Mụ, với kiến trúc cổ kính và đẹp mắt, được vua Thiệu Trị Liệt cánh là một trong những thắng cảnh đặc sắc của xứ Huế. Là nơi tụ tập đông đảo đạo hữu và chân tu, chùa đã trải qua nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, như đại giới đàn năm 1695 dưới triều chúa Nguyễn Phúc Chu.

Ngày nay, Chùa Thiên Mụ vẫn tỏa sáng trong vẻ đẹp truyền thống và vinh quang, là điểm đến thu hút du khách không chỉ bởi kiến trúc tinh tế mà còn bởi tâm linh và lịch sử mà nó đựng đầy.

Bài làm 22

Huế là điểm đến của nhiều kỳ quan tự nhiên tuyệt vời, và trong số đó, hòn đảo Hòn Mun là một điểm đặc biệt thu hút sự chú ý. Với vẻ đẹp tự nhiên hoang sơ và động thực vật biển phong phú, Hòn Mun là nơi lý tưởng cho những hành trình khám phá về đại dương và văn hóa biển.

Theo truyền thuyết, khi Nhà Nguyễn muốn mở rộng vương quốc, chúa Nguyễn Hoàng đã tận mắt thấy vùng biển quanh hòn đảo Hòn Mun. Nơi đây được mô tả như một hòn đảo nhỏ với hình dáng giống như một viên ngọc lấp lánh giữa đại dương. Dân địa phương thậm chí kể lại câu chuyện về một bà tiên áo dài màu đỏ xuất hiện trên bờ biển và bảo rằng, ‘Ở đây sẽ xuất hiện một vị thần biển, làm cho vùng biển trở nên thịnh vượng’. Chính vì điều này, hòn đảo này còn được gọi là Hòn Mun (đảo Mun). Ý nghĩa lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như trùng hợp với mong muốn của cả cộng đồng. Ông quyết định xây dựng một ngôi đền trên hòn đảo, hướng nhìn ra biển, đặt tên là ‘Đền Hòn Mun’.

Trong thực tế, đã có một ngôi đền của người Chàm tại đây – một di tích được ghi chú trong bộ sử Ô châu cận lục của Dương Văn An vào năm 1553. Tuy nhiên, cho đến năm 1601 khi chúa Nguyễn Hoàng quyết định, Đền Hòn Mun mới chính thức được xây dựng với sự hỗ trợ của cộng đồng địa phương.

Theo sự phát triển và thịnh vượng của Phật giáo ở xứ Đàng Trong, chùa đã trải qua quá trình xây dựng lại với quy mô lớn hơn dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Năm 1710, chúa quyết định đúc một chiếc chuông lớn đặc biệt có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa tiếp tục thực hiện việc trùng tu chùa với hàng loạt công trình kiến trúc ấn tượng như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền… nhiều trong số đó hiện không còn tồn tại. Chúa Nguyễn Phúc Chu còn viết bài văn bia tôn vinh việc xây dựng các công trình kiến trúc này, ca ngợi triết lý Phật giáo và kể về sự tích của Hòa thượng Thạch Liêm – người có đóng góp lớn trong việc phát triển Phật giáo ở xứ Đàng Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá khổng lồ, với trang trí giản dị nhưng tinh tế.

Với quy mô mở rộng và vẻ đẹp tự nhiên, chùa Thiên Mụ từ thời điểm đó đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất ở xứ Đàng Trong. Vượt qua những biến cố lịch sử, chùa đã từng được sử dụng làm đàn Tế Đất dưới thời triều đại Tây Sơn (khoảng năm 1788), sau đó đã trải qua nhiều lần trùng tu và tái thiết dưới thời các vua nhà Nguyễn. Năm 1844, nhân dịp kỷ niệm lễ ‘bát thọ’ (sinh nhật thứ tám mươi) của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị tiến hành xây dựng lại chùa với quy mô lớn hơn: Thêm tháp Từ Nhân (sau này là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và đặt 2 tấm bia ghi chép thơ văn của vua.

Tháp Phước Duyên là biểu tượng nổi tiếng kết nối với chùa Thiên Mụ. Cao 21m, với bảy tầng, tháp được xây dựng phía trước của chùa. Mỗi tầng của tháp đều có đặt tượng Phật. Bên trong có bậc thang xoắn ốc dẫn lên tầng cao nhất, nơi trước đây trưng bày tượng Phật làm bằng vàng. Trước tháp là đình Hương Nguyện.

Chùa Thiên Mụ được xếp vào danh sách hai mươi địa danh linh thiêng của đất Thần Kinh qua bài thơ ‘Thiên Mụ chung thanh’ do vua Thiệu Trị sáng tác và ghi chép trên tấm bia đá đặt gần cổng chùa. Năm 1862, dưới triều vua Tự Đức, vì lo ngại chữ ‘Thiên’ có thể xâm phạm đến Thần, vua quyết định đổi tên từ ‘Thiên Mụ’ thành ‘Linh Mụ’ (Bà mụ linh thiêng). Cho đến năm 1869, vua mới quyết định khôi phục tên gọi ban đầu là Thiên Mụ. Do đó, trong truyền thuyết dân gian, người ta thường sử dụng cả hai tên để đề cập đến chùa này.

Trận bão kinh hoàng năm 1904 đã gây thiệt hại nặng nề cho chùa. Nhiều công trình bị hư hại, trong đó đình Hương Nguyện hoàn toàn bị sụp đổ. Qua nhiều lần trùng tu, bên cạnh những công trình kiến trúc như tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm… cùng với bia đá, chuông đồng, chùa Thiên Mụ hiện nay còn là nơi chứa đựng nhiều cổ vật quý giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn về nghệ thuật. Những bức tượng Hộ Pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Lặc, tượng Tam Thế Phật… cùng những bảng hoành phi, câu đối ở đây đều kể lên những giai đoạn lịch sử hoàng kim của chùa Thiên Mụ.

Bên trong khuôn viên của chùa là một vườn hoa cỏ được chăm sóc và trang trí hàng ngày. Nơi đây, hòn non bộ của danh nhân nghệ thuật hát tuồng Việt Nam – Đào Tấn, được đặt gần chiếc xe ô tô – biểu tượng của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức, người đã hy sinh bản thân bằng cách thiêu đốt để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm vào năm 1963. Phía cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã hiến dâng cuộc đời để phục vụ ý nghĩa thiện của Phật giáo.

Nằm bên bờ sông Hương hữu tình của miền Trung, chùa Thiên Mụ với kiến trúc cổ kính là điểm nhấn tô điểm cho vẻ đẹp tự nhiên tại đây, làm tăng thêm sự duyên dáng và hấp dẫn. Âm thanh của chuông chùa như là linh hồn của thành phố Huế, vang vọng mãi theo dòng nước sông Hương, chảy qua Kinh Thành, hòa mình với cảnh biển, để lại ấn tượng sâu sắc trong trái tim của những du khách từ xa đến Huế, mang theo niềm hứng thú của thiền địa.

Bài làm 23

Vịnh Hạ Long – điểm đến du lịch nổi tiếng của Việt Nam, nổi bật với hàng nghìn hòn đảo đa dạng, mang đến vẻ đẹp kỳ diệu và hùng vĩ của thiên nhiên. Vịnh này có giá trị lớn đối với ngành du lịch cả trong và ngoài nước.

Vịnh Hạ Long là kho báu lịch sử của trái đất với những dấu vết của người Việt cổ, một tuyệt tác của tạo hóa với diện tích lên đến 434 km2, 775 hòn đảo, được bảo vệ bởi vùng đệm rộng 1.119 km2. Hệ sinh thái đa dạng và phong phú với nhiều loài động thực vật quý hiếm, ngoài ra, vùng này còn kể một câu chuyện lịch sử và văn hóa hào hùng của dân tộc.

Vịnh Hạ Long là sản phẩm của quá trình địa chất học, với câu chuyện kết nối với sự giữ nước của dân tộc. Trong câu chuyện, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ và Rồng Con xuống trần gian giúp dân đánh giặc. Sau khi giặc tan, hai mẹ con rồng ở lại trần thế. Hạ Long là nơi Rồng Mẹ đáp xuống, còn Bái Tử Long là nơi Rồng Con đáp xuống…(Còn tiếp)

Bài làm 24

Dọc theo hình chữ S yêu quý của đất nước, mỗi tỉnh thành sẽ trưng bày những danh lam thắng cảnh độc đáo. Hà Nội có Hồ Hoàn Kiếm, Ninh Bình có chùa Bái Đính, Tràng An; và khi nói đến Quảng Nam, chúng ta không thể quên Phố cổ Hội An. Đây là một điểm đẹp tự nhiên và điểm đến du lịch hấp dẫn, thu hút du khách trong và ngoài nước.

Phố cổ Hội An, nằm ở hạ nguồn của sông Thu Bồn, cách Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam, là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Qua các thế kỷ, từ thời kỳ thịnh vượng trong thương mại đến những giai đoạn đen tối của chiến tranh, Phố cổ Hội An vẫn giữ được vẻ đẹp và những giá trị văn hóa của mình. Trong những cuộc chiến tranh gay cấn, may mắn là nơi này không bị tàn phá, vẫn giữ nguyên những kiến trúc, văn hóa đặc trưng. Đồng thời, với sự đổi mới đô thị hóa trong thế kỷ 20,…(Còn tiếp)

Bài làm 25

Dọc theo dải đất cong hình chữ S của Việt Nam bên bờ Thái Bình Dương, chúng ta gặp những địa điểm đẹp tự nhiên hùng vĩ như Non Nước – Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng, khu di tích Hương Sơn tại Hà Tây (nay là Hà Nội). Hải Phòng cũng không thua kém khi sở hữu di tích Núi Voi, nơi kết hợp vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng với những đình đền cổ kính, thu hút nhiều du khách.

Di tích Núi Voi thuộc huyện An Lão, Hải Phòng, cách trung tâm thành phố 20km, rộng khoảng 300 ha. Một câu thơ mô tả Núi Voi như sau:

‘Kiến An có núi ông Voi
Có sông Văn Úc, có đồi Thiên Văn’

Nói về di tích Núi Voi, nó là một trong những địa điểm được xếp hạng là danh lam thắng cảnh cấp quốc gia đầu tiên của Hải Phòng, từ ngày 28/4/1962…(Còn tiếp)

Bài làm 26

Tôi nghe một bài hát mở đầu bằng những câu hát đáng yêu, tươi tắn như sau:

‘Ngày hôm qua, bước chân đến chùa Hương
Hương sắc nở dịu dàng trong sương mờ
Cùng thầy mẹ, tâm hồn trong veo soi gương.’

Tôi đọc một bài hát khác của Chu Mạnh Trinh như thế này:

‘Trời xanh, cảnh thiền địa,
Thú Hương Sơn ước mong từ lâu.
Đỉnh cao non nước, mây mây,
Động đầu tiên, đây có phải không?’

Tóm lại, cả hai tác phẩm đều nói về một địa điểm nổi tiếng, gọi là Chùa Hương, nhưng thực tế đó không chỉ là một ngôi chùa riêng lẻ mà là một phần của Hương Sơn – một quần thể di tích văn hóa – tôn giáo lớn, có từ thời vua Lê-chúa Trịnh. Chùa Hương không chỉ mang vẻ đẹp thơ mộng như chốn bồng lai tiên cảnh mà còn là nơi thiêng liêng, thuần khiết như chốn thiền tu. Bước chân đến Hương Sơn, khách lữ hành dường như quên mọi phiền muộn, để đắm chìm trong không gian yên bình, hòa mình vào phong cảnh núi non, đền chùa, ‘Nam thiên đệ nhất động’…(Còn tiếp)

Bài làm 27

Thanh Hoá, vùng đất ‘địa linh nhân kiệt’, sinh tỏ những anh hùng dân tộc như Bà Triệu, Lê Lợi, Lê Thánh Tông… Không chỉ là điểm đến giàu văn hoá, nhân kiệt, Thanh Hóa còn hấp dẫn bởi những danh lam thắng cảnh tuyệt vời như Hàm Rồng, bãi biển Sầm Sơn… Trong số đó, khu di tích lịch sử Lam Kinh thu hút du khách bởi vẻ đẹp lịch sử quyến rũ.

Từ trung tâm thành phố Thanh Hoá, chỉ một giờ lái xe về hướng Tây Bắc, du khách sẽ đến Lam Kinh. Nằm tại thị trấn Lam Sơn, Thọ Xuân, khu di tích lịch sử rộng hơn 30 ha, bao gồm nhiều đền miếu, lăng tẩm… Hướng về sông Chu ở phía Bắc, núi Hàm Rồng ở phía Tây, rừng Phú Lâm và núi Hương ở phía Đông, Lam Kinh mang đến một không gian hòa mình với lịch sử và thiên nhiên.

Thành điện Lam Kinh khởi công theo sự quyết định của vua Lê Thái Tổ. Chỉ hơn 10 năm sau chiến thắng của quân Lam Sơn, vua quyết định xây dựng kinh thành Lam Kinh tại vùng đất Lam Sơn để phát triển và xây dựng quê hương mới…(Còn tiếp)

Bài làm 28

Những người đam mê khám phá kiến trúc tôn giáo độc đáo đều sẽ ngưỡng mộ và ao ước trước những ngôi chùa độc đáo và rực rỡ tại xứ chùa vàng. Chùa Dơi ở Sóc Trăng, với lối kiến trúc hòa quyện giữa văn hóa Khơ Me và Việt Nam, là điểm đến thu hút đông đảo du khách.

Chùa Dơi nổi tiếng với việc có hàng vạn con dơi sinh sống xung quanh, tạo nên bức tranh huyền bí và phúc lành. Tên gọi ‘Dơi’ xuất phát từ sự hiện diện đặc trưng của loài động vật này, mang theo ý nghĩa tích cực trong tín ngưỡng Khơ Me.

Bài làm 29

Bình Định – vùng đất trù phú với nắng và gió. Tháp Đôi, một trong những điểm du lịch nổi tiếng ở đây, mang đến cho du khách trải nghiệm độc đáo với những cảnh đẹp tự nhiên và di tích lịch sử từ hàng ngàn năm trước.

Tháp Đôi, hay còn gọi là Tháp Hưng Thạnh, là một trong những biểu tượng nổi tiếng của vùng đất Bình Định. Vị trí của Tháp Đôi nằm khoảng 3 km về phía Tây Bắc so với trung tâm thành phố, tại đường Trần Hưng Đạo, quận Đống Đa, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Các nhà nghiên cứu cho biết, Tháp Đôi được xây dựng vào cuối thế kỉ XII đến đầu thế kỉ XIII với kiến trúc độc đáo. Dù trải qua những biến cố lịch sử, với những cuộc chiến tranh gay gắt, Tháp Đôi đã từng bị tàn phá nặng nề và lâu dần bị lãng quên. Tuy nhiên, sau nhiều lần trùng tu, với sự đóng góp của các chuyên gia Ba Lan và chuyên gia trong nước, ngày nay Tháp Đôi đã phần nào khôi phục lại vẻ đẹp của mình như thời kỳ ban đầu. Đặc biệt, vào tháng 7 năm 1980, Tháp Đôi đã được công nhận là di tích quốc gia.

Tháp Đôi tọa lạc trong khuôn viên rộng khoảng 6000 mét vuông, với sự bao bọc của một vườn cây xanh tươi tốt quanh năm, nổi bật trong đó là loài hoa Chăm-pa…

 

hochoi.net - Học Hỏi

Có thể sử dụng ctrl + F để copy code nhanh hơn nhé!