Trang chủ / Văn Mẫu THCS / Văn lớp 9 / Phân tích bài thơ Bếp lửa lớp 9 của Bằng Việt hay nhất

Phân tích bài thơ Bếp lửa lớp 9 của Bằng Việt hay nhất

Ta từng biết đến tình bà cháu sâu đậm của nhà thơ Nguyễn Duy trong bài thơ “ Đò Lèn”. Một lần nữa tình yêu cảm đẹp đẽ ấy được tác giả Bằng Việt khắc họa đậm nét, chân thực qua bài thơ “ Bếp lửa”. Lời thơ chảy theo miền kí ức của người cháu khi đã trưởng thành, sống thời bình, bắt gặp “ bếp lửa chờn vờn sương sớm” mà sống dậy cả trời thương nhớ về bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa. Quãng tuổi thơ của cháu trải qua những ngày gian khó nhất của đất nước, xóm làng. Chính tình yêu thương, sự đùm bọc của bà khơi dậy niềm tin tưởng, lạc quan cho mọi người đặc biệt là với đứa cháu nhỏ. Khi làm bài văn phân tích bài thơ “ Bếp lửa” các bạn cần chú ý hình ảnh bếp lửa, tình làng xóm và tình bà cháu là trung tâm. Sau đây là những bài văn mẫu các bạn có thể tham khảo trước những băn khoăn về đề bài này. Chúc các bạn thành công!

BÀI VĂN MẪU SỐ 1 PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ BẾP LỬA” CỦA BẰNG VIỆT

Hình ảnh người cháu đi lính trở về quê ngoại hồi tưởng lại hình bóng bà lam lũ vất vả trong bài thơ “ Đò Lèn” của Nguyễn Duy:

  • “ bà đi gánh chè xanh Ba Trại
  •    Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”

gợi nhắc ta nhớ tới tình cảm bà cháu sâu nặng trong bài thơ “ Bếp lửa”. Nhà văn muốn thể hiện lòng kính yêu bà và gia đình, quê hương, đất nước.

Dòng kỉ niệm tuổi thơ ấu của người cháu dội về khi tình cờ bắt gặp một hình ảnh quen thuộc từng gắn bó với mình:

  • “ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
  •   Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
  •   Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Một ánh lửa bập bùng, thoáng ẩn thoáng hiện gợi không gian mờ ảo để dòng kí ức ùa về trong tâm trí. Hai láy từ “ chờn vờn, ấp iu” không chỉ khắc họa hình ảnh bếp lửa mới được nhen lên mà khơi gợi bàn tay cần mẫn của người ba đang nâng niu, vun vén cho ngọn lửa ấy. Người cháu bộc lộ tình cảm trực tiếp khi nhớ tới bà. Nghệ thuật ẩn dụ “ biết mấy nắng mưa” tượng trưng cho cả cuộc đời bà chịu thương chịu khó có cả những đắng cay, nhọc nhằn.

Thời gian trôi đi nhưng kỉ niệm còn in đậm trong lòng cháu là lúc lên bốn tuổi. Nếu tuổi thơ bao trẻ thơ vui tươi, hồn nhiên trong niềm hạnh phúc đủ đầy thì tuổi thơ cháu lại gắn liền với mùi khói. Kí ức đang buồn sống dậy một cách rõ nét khi cả nước ta trải qua nạn đói khủng khiếp:

  • “ Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi”

Điêp từ “ đói”, từ láy “ mòn mỏi” tái hiện cái đói dai dẳng, gặm nhấm dần sự sống khiến cuộc sống cứ mòn đi như rỉ ra. Hình tượng “cha đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy” đầy ám ảnh về sự thê lương trong quãng thời gian gian khổ của đất nước. Với người cháu, “ quen” mùi khói nên giờ đây sống mũi còn cay. Có lẽ “ cay” nơi  khóe mắt, sống mũi bởi niềm xúc động đang trào dâng trong lòng.

Suốt tám năm trời sống cuàng bà nơi làng quê nghèo, âm thanh còn vang vọng mãi tới tận bây giờ chính là tiếng chim tu hú:

  • “ Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
  •    Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
  •  … Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

Tiếng chim ngân vang những tưởng nó làm vui lên sự sống lặng thầm, buồn chán kia nhưng khoảng không “ những cánh đồng xa”. Phải chăng đó chỉ là tiếng vọng từ phương trời xa xôi nào cũng hẻo lánh, hoang tàn như thế? Hơn cả, tiếng tu hú gợi lại hình dáng người bà kính yêu:

  • “ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
  • …Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
  •   Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
  • Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,”

Hình ảnh người bà lặp đi lặp lại trong kí ức của cháu. Cha mẹ bận công tác chưa về nên bà vừa là cha, là mẹ, vừa là thầy bảo ban, dạy dỗ cháu nên người. Những câu chuyện về cuộc kháng chiến gian ở Huế mà bà kể cũng khơi dậy lòng căm thù giặc của cháu. Lòng biết ơn bà sâu sắc khiến cháu hờn trách chú chim tu hú chẳng đến bên bà để sẻ chia những lo toan:

  • “ Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà?
  •    Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Nên Xem:  Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 chuyên Văn tỉnh Nam Định

Người cháu còn nhớ như in những vẻ đẹp ngời sáng trong tâm hồn bà. Đó là lòng nhẫn nhịn, âm thầm chịu đựng đau khổ, mất mát. Lòng vị tha cao cả của bà luôn muốn gánh chịu đau thương một mình để nơi chiến khu tiền tuyến được vững lòng nơi hậu phương. Trong hoan nạn, lúc cơ hàn là khi tình nghĩa xóm làng, tinh thần đoàn kết của người dân mạnh mẽ nhất:

  • “ Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
  • Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”

Giữa hoàn cảnh khó khăn ấy, bà vẫn giữ thói quen dậy sớm và công việc nhóm bếp lửa. Điệp ngữ:

  • “ Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
  •    Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

Hình ảnh ẩn dụ: “ một ngọn lửa” tượng trưng cho niềm tin hi vọng mong manh về cuộc sống lúc nào cũng được bà ấp ủ, nâng niu. Niềm tin về một tương lai tươi sáng của sự đoàn tụ gia đình,sự chiến thắng dân tộc. Ngọn lửa của bà trở thành sức mạnh kì diệu:

  • “ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
  •    Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
  •   Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
  •   Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

Điệp từ “ nhóm” lặp lại tới bốn lần, ánh lửa ấm áp ấy sưởi ấm tâm hồn mọi người, tình làng xóm thắt chặt hơn sự san sẻ từng củ khoai sắn, nồi xôi gạo mới do bà thổi. Còn cháu lạc quan vẫn nuôi những mơ ước bé nhỏ. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa.

Trở về với thực tại, cuộc sống trở nên đủ đầy, tiện nghi hơn với: “ khói trăm tàu, lửa trăm nhà…”, số đếm ước lệ “ trăm” nhấn mạnh cuộc đời tốt đẹp như niềm tin của bà ngày trước. Cuộc sống dù đổi thay thì vẫn có một điều không bao giờ thay đổi: kỉ niệm về bà bên hình ảnh bếp lửa “ thiêng liêng và kì lạ”.

Qua dòng suy tưởng về thời thơ ấu gắn bó với người bà cùng hình ảnh ngọn lửa, nhà thơ Bằng Việt muốn gửi gắm tình thương yêu, lòng biết ơn bà sâu sắc và cũng là đối với quê hương, đất nước trong bài thơ “ Bếp lửa”.

BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH BÀI THƠ BẾP LỬA

Những kỉ niệm tuổi ấu thơ ai mà chẳng có. Tế Hanh có “con sông xanh biếc” với những người bạn bè bơi lội, vui đùa. Giang Nam có “thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường”. Nguyễn Duy có một sân “chơi đáo, chơi vòng” của bạn bè cùng lứa, có tuổi thơ thả hồn với đồng ruộng. Bằng Việt cũng có một tuổi thơ da diết vọng về với hình ảnh người bà thân yêu. Chính tình cảm bà cháu thân thương, ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ đầy xúc động và khơi gợi nhiều ý nghĩa. Đó là bài thơ “Bếp lửa”

Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn bó với làng quê có con sông xanh biếc, cây đa, bến nước, sân đình…Nhưng dòng hồi tưởng của Bằng Việt lại bắt đầu từ hình ảnh thân thương về bếp lửa:

  • “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
  • Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Từ láy tượng hình “chờn vờn” giúp ta hình dung ánh lửa hồng khi mờ khi tỏ trong sớm mai, gợi về cái mờ nhòa của kí ức theo thời gian. Người cháu xa nhà không thể nào quên được bếp lửa bình dị, thân quen. Không chỉ thấy cái “chờn vờn” của ngọn lửa mà cháu còn cảm nhận được cái hơi ấm của màu than đỏ đang “ấp iu nồng đượm”. Từ láy “ấp iu” vừa diễn tả chính xác công việc nhóm lửa vừa gợi bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và tấm lòng chăm chút của người nhóm bếp. Tình cảm trào dậy một cách tự nhiên:

  • “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”
Nên Xem:  Soạn bài Mùa xuân nho nhỏ Ngữ văn 9 đầy đủ hay nhất

“Nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ quen thuộc gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, thăng trầm trong cuộc đời bà để nuôi cháu khôn lớn. Chữ “thương” được dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán đã gói trọn bao cảm xúc của cháu dành cho bà. Từ đây bà và bếp lửa là hai hình ảnh sóng đôi, đi suốt dọc bài thơ và theo cả nỗi nhớ của người cháu.

Từ bếp lửa nhớ về người nhóm lửa, ký ức đưa người cháu trở về những năm lên bốn tuổi:

  • “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
  • Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
  • Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
  • Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
  • Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Tuổi thơ của cháu không phải là vòm trời cổ tích cao rộng với những phép màu diệu kì của ông Bụt, bà Tiên. Tuổi thơ của cháu thật nhọc nhằn, quen mùi khói bếp nhà nghèo và có bóng đêm ghê rợ của nạn đói năm 45. Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” diễn tả cái đói triền miên, dai dẳng, cái đói vắt kiệt sinh lực của biết bao nhiêu con người. Người bố đi đánh xe với con ngựa gầy, tất cả trong mùi khói hun đến nghẹt thở, nao lòng cả tuổi thơ. Nghĩ mà thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Cái cay nồng mà người cháu cảm nhận được không phải là mùi khói bếp mà đó chính là dư vị tuổi thơ ám ảnh trong tâm thức bỗng trỗi dậy mạnh mẽ. Năm tháng qua đi nhưng nó đã trở thành vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai.

Qua những năm tháng đói mòn đói mỏi lại nhớ về kỉ niệm những năm chiến tranh “Mẹ cùng xa công tác bận không về”. Tám năm cháu ở cùng bà. Bên ánh lửa bập bùng, bà vừa là cha, là mẹ, bà dạy dỗ cháu nên người:

  • “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
  • Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”

Sự xuất hiện của hàng loạt những động từ “dạy”, “bảo”, “chăm”, “học”, “ở”, “nghe”, “làm” diễn tả những công việc lặng thầm của bà. Mỗi cử chỉ của bà đều thấm đẫm tình yêu thương, sự cưu mang, đùm bọc cháu.

Bếp lửa còn đánh thức thêm kỉ niệm nữa của tuổi thơ, kỉ niệm với tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú là âm thanh quen thuộc của làng quê mỗi độ vào hè. Tiếng chim râm ran trong vòm lá, trên cánh đồng, cứ khắc khoải kêu hoài, kêu mãi, giục giã cả một khoảng trời, khiến cho lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong. Nhà thơ đang kể chuyện mà như tách hẳn ra để trò chuyện cùng bà:

  • “Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
  • Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.”

Những câu chuyện đó là sự từng trải của cuộc đời bà và bà muốn nhắc nhở cháu hãy sống thật tốt, thật có ích cho cuộc đời. Tự nhiên cháu thấy thương bà quá. Cháu thương bà vất vả, lo toan, không biết ngỏ cùng ai chỉ biết tâm tình với chim tu hú mà thôi:

  • “Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
  • Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Câu hỏi tu từ đã thể hiện được những cung bậc cảm xúc trong tâm trạng của người cháu. Như vậy hình ảnh “bếp lửa” đã đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, ở đó lung linh hình ảnh người và có cả hình ảnh đất nước.

Hình ảnh người bà bỗng trở nên cao lớn vĩ đại khi người cháu nhớ về những năm tháng đau thương, vất vả khi giặc tàn phá xóm làng. Lời dặn “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ. Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” không chỉ gợi ra giọng nói hiền từ của bà, suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lên phẩm chất của bà. Bà đã nhận về mình tất cả mất mát, khổ đau để con cháu yên tâm đánh giặc. Bà là người mẹ, người bà, người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến. Với Bằng Việt, họ gánh cả kháng chiến lên đôi vai bé nhỏ của mình.

Nên Xem:  Dàn ý Nghị luận về sự ích kỷ lớp 9 chi tiết đầy đủ

Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ, về bà, người cháu trở về với hiện tại để suy ngẫm về cuộc đời và những lẽ sống về bà, cũng là để thương bà nhiều hơn, nhớ bà nhiều hơn:

  • “Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
  • Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
  • Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

Từ bếp lửa bình dị thân quen ấy đã nâng lên thành ngọn lửa. Ngọn lửa không chỉ được nhen lên bằng những nguyên liệu đời thường mà còn được nhen lên từ tấm lòng bao la của bà, được bà ấp ủ, chở che nên không bao giờ vụt tắt. Điệp từ “rồi” kết hợp với hai danh từ chỉ thời gian “sớm”, “chiều” khiến câu thơ vang lên như bước gõ nhịp của thời gian. “Bếp lửa” là hình ảnh tả thực còn “ngọn lửa” được chuyển hóa thành hình ảnh biểu tượng. Ngọn lửa là những kỉ niệm lòng nâng bước cháu trên chặng đường dài. Ngọn lửa là niềm tin dai dẳng, bền bỉ, bất diệt bà nhen lên trong lòng cháu. Nhờ ngọn lửa ấy mà cháu tin vào chiến thắng của dân tộc. Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành vừa tạo nhạc tính cho câu thơ khiến lời thơ dồn dập, tha thiết mà mạnh mẽ, xúc động, vừa khẳng định sức sống mãnh liệt, bất tận của ngọn lửa bà nhen.

Theo dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu, hình ảnh người bà hiện lên lung linh, sáng đẹp, ấm áp:

  • “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
  • Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
  • Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
  • Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
  • Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
  • Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
  • Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…”

Từ láy “lận đận” giàu giá trị gợi cảm được đảo lên đầu dòng thơ gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, gian truân của cuộc đời người bà. Điệp từ “nhóm” đứng ở đầu mỗi dòng thơ, nhắc đi nhắc lại bốn lần khắc ghi những ý nghĩa trong công việc nhóm lửa của bà. Mỗi sớm mai bà nhóm lên bếp lửa là nhóm lên niềm yêu thương; nhóm sự chở che, cưu mang đùm bọc giữa ngọt bùi, khoai sắn; nhóm sự sẻ chia, đoàn kết của tình làng, nghĩa xóm; nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ của cháu. Bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa và giữ lửa. Bà không chỉ làm công việc khởi đầu của một ngày mà còn làm công việc khởi đầu của một đời người. Từ đây cảm xúc về bà và bếp lửa dâng trào lên mãnh liệt:

  • “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Người cháu giờ đây đã khôn lớn trưởng thành, nhưng trong sâu thẳm lòng cháu vẫn da diết một nỗi nhớ thương về bà và bếp lửa:

  • “Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
  • Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
  • Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
  • – Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”

Nơi cháu đang sống với đầy đủ tiện nghi vật chất, khách hẳn với không gian của bà cháu nơi quê nhà, nhưng cháu luôn nhớ về bà, nhớ về ngọn lửa bà nhen. Câu hỏi tu từ ở cuối bài thơ nhắc nhở cháu không nguôi nhớ về những kỉ niệm về bà và bếp lửa.

Bài thơ đã sáng tạo hình ảnh bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Bài thơ có sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận, giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu. Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa thầm kín: Những gì là thân thiết nhất với tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời.

“Tác phẩm là kết tinh tâm hồn người sáng tác”. Bài thơ “Bếp lửa” đã thể hiện được tất cả tình yêu thương của Bằng Việt đối với người bà kính yêu của mình. Chính tình cảm bà cháu thiêng liêng ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ xúc động và mang nhiều ý nghĩa.

Nguồn Internet

hochoi.net - Học Hỏi

Có thể sử dụng ctrl + F để copy code nhanh hơn nhé!