Trang chủ / Văn Mẫu THCS / Văn lớp 8 / Chứng minh rằng: Với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi

Chứng minh rằng: Với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi

Đề bài: Chứng minh rằng: Với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi

Bài làm 1

Trước kia, vào những ngày Tết, trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh cặp bánh chưng, mâm ngũ quả là đôi câu đối Tết. Bởi chính vậy, những ông đồ già trên vỉa hè, phố xá rất đông khách thuê viết. Hình ảnh ông đồ đội khăn xếp, mặc áo the viết câu đối đã khắc ghi vào sâu trong tâm trí nhà thơ Vũ Đình Liên. Với bài thơ “Ông đồ”, Vũ Đình Liên đã chạm được vào những dung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi đến những thế hệ sau này.

Nhà thơ viết lên bài với một tấm lòng yêu thương, trân trọng, ngợi ca những tài năng, sự đóng góp của những lớp người đi trước với nền văn hoá của dân tộc. Nhà thơ đã làm như vậy khi viết bốn câu thơ đầu:

“Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua. ”

“Một thời vang bóng” của lớp người đã được xã hội trọng vọng, lúc mà nền tảng Hán học đang có một địa vị vững chắc. Gắn liền với sự hưng thịnh đó là hình ảnh những ông đồ giữa phố phường đông vui đầy sắc màu. Màu thắm của hoa đào, màu đỏ của giấy, màu đen nhánh của mực tầu và mái tóc hoa râm của ông đồ. Tất cả đã hài hoà, quyện với nhau thành một tác phẩm tranh lộng lẫy, ngoạn mục giữa phố xá tấp nập. Một vẻ đẹp sao vui tươi quá vậy!

Đây mới là những hình ảnh thoáng qua như gió xuân hây hẩy nhưng cũng đã đủ để gợi lên cài gì đó thật quen trong lòng người.

Ở khổ tiếp theo, hình ảnh ông đồ vẫn không phai nhạt:

“Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay.”

Quả thực, đến lúc này, tài năng của ông đồ đã được phô bầy trong không khí phố phường, lúc này mọi người chú ý và trân trọng tài năng đó. Cái tài năng “Phượng múa rồng bay” của ông đồ dưới một bàn tay đầy khéo léo nghệ thuật đã làm rạng danh cho nên Hán học. Những con người đi trước với nền văn hoá dân tộc. Những câu chữ thánh hiền ông viết đã tặng cho mọi người về làm quà đón xuân, trang trí ngôi nhà ấm cúng, tình cảm gia đình thật ấm áp hơn.

Thật đáng buồn biết bao, một truyền thống đẹp của dân tộc đã bị mai một đi, một hình ảnh đầy sắc màu mùa xuân đã dần mất đi khi nền văn hoá phương Tây du nhập vào nước ta. Người ta quên lãng đi câu đối tết và thay vào đó những bức tranh màu sấc rất sặc sỡ.

“Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu.”

Độc giả đã hụt hẫng, cảm xúc tươi vui đã bị mất đi khi đọc khổ thơ này.

Trước sự tàn tạ, ra đi của ông đồ và lớp người xưa cũ, lòng thương người của nhà thơ Vũ Đình Liên được biểu hiện ở sự cảm thông, nỗi xót xa và niềm tiếc nuối khôn nguôi. Ở 2 câu thơ:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Ta như thấy nhà thơ bâng khuâng đi tìm lại bóng dáng của lớp người xưa cũ. Giọng thơ xót xa khi những con người tài hoa đã bị đẩy ra ngoài lề đường. Trong bối cảnh ấy, tình cảnh ông đồ dần trở nên buồn chán. Người thuê viết giảm đi theo thời gian và năm tháng “mỗi năm mỗi vắng”. Hình ảnh ông đồ giữa đường phố đông vui chỉ còn là một thứ bóng mờ xa xôi. Nỗi xót thương của nhà thơ được bộc lộ rõ nét khi ông đồ và lớp người xưa cũ dần mất đi:

“Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu.”

Người buồn, nên những vật dụng từng gắn bó thân thiết với ông cũng sầu đạm theo: giấy không đỏ như xưa, mực trong nghiên cũng sầu não theo. Có lẽ, giấy, nghiên mực không có tâm trạng, nhưng cái bi kịch tâm trạng của giấy, mực mà nhà thơ Vũ Đình Liên nhìn thấy chính là những nỗi xót xa, bẽ bàng của ông đồ nói riêng và lớp người xưa cũ nói chung. Nỗi buồn ấy không chỉ thấm vào phương tiện mưu sinh mà còn thấm đẫm vào cảnh vật thiên nhiên, cảnh vật đã làm cho không gian thêm hiu quạnh và hoang vắng.

“Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay.”

Cho dù, ông đồ vẫn ngồi đấy nhưng đã bị mọi người quên lãng, ông chỉ còn là một di tích tiều tuỵ đáng thương của “một thời tàn’”. Và có lẽ từ đó, ông vĩnh viễn vắng bóng. Đây âu cũng là sự dĩ nhiên, phũ phàng. Một Tết nào đó, khi hoa đào lại nở, người đời đã thảng thốt nhận ra sự vắng bóng của ông đồ trước cảnh nhộn nhịp của chốn phố phường. Một tiếng gọi tha thiết vang lên:

“Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?”

Ở hai khổ thơ đầu gợi lên cho độc giả niềm phấn chấn, tươi vui thì ba khổ thơ sau là một hình ảnh buồn bã, xót thương, sắc màu cũng phai nhạt theo. Giờ đây, ông đồ và lớp người xưa cũ đã trở nên vô nghĩa giữa cuộc đời. Bài thơ khép lại bằng những hình ảnh, câu thơ mang nặng nỗi buồn tha thiết của tác giả Vũ Đình Liên.

Đọc bài thơ “Ông đồ” xong, ta thấy Vũ Đình Liên đã diễn tả được tình yêu thương con người sâu sắc trước số phận hẩm hiu của ông đồ, nhưng nó đẹp biết bao. Bài thơ còn thể hiện một tâm Hồn cao cả và nhân hậu, một con người rất giàu tình yêu thương sâu đậm, ngợi ca những tài năng của người xưa và khuyên răn chúng ta hãy sống để giữ gìn và phát huy những tinh hoa văn hoá của dân tộc. Nền văn hoá đó xứng với một tầm cao mới.

Bài làm 2

Trước đây, trong những ngày Tết, trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh cặp bánh chưng, mâm ngũ quả là đôi câu đối Tết. Vì vậy, những ông đồ già trên vỉa hè, phố xá thường được thuê viết. Hình ảnh ông đồ đội khăn xếp, mặc áo the đã in sâu vào tâm trí của nhà thơ Vũ Đình Liên. Với bài thơ ‘Ông đồ’, Vũ Đình Liên đã chạm vào những động cảm tâm linh của dòng họ nên nó vẫn còn rất đặc biệt đối với những thế hệ sau.

Nhà thơ viết bài với tấm lòng biết ơn, tôn trọng, ca ngợi những tài năng, đóng góp của những lớp người đi trước trong văn hoá dân tộc. Ông đã làm như vậy khi viết bốn câu thơ đầu:

‘Hoa đào lại nở mỗi năm
Ông đồ già vẫn hiện hữu
Bên phố đông người qua lại
Bày mực tàu giấy đỏ phô trương’

‘Một thời đỉnh cao’ của những người được xã hội kính trọng, trong thời kỳ mà văn học Hán đang đạt đến đỉnh cao. Liên quan đến thịnh vượng đó là hình ảnh của những ông đồ giữa phố phường đầy màu sắc. Màu hồng của hoa đào, màu đỏ của giấy, màu đen của mực tàu và mái tóc bạch của ông đồ. Tất cả đã kết hợp hài hòa, tạo nên một tác phẩm tranh đẹp mắt, ấn tượng giữa phố xá sôi động. Một vẻ đẹp vui tươi không ngừng!

Nên Xem:  Phân tích nhan đề Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu

Đó là những hình ảnh thoáng qua như cơn gió xuân nhẹ nhàng nhưng cũng đủ để gợi lên điều gì đó thật quen thuộc trong lòng người.

Trên khổ giấy tiếp theo, hình ảnh của ông đồ vẫn rực rỡ không phai:

‘Bao người thuê viết cho nụ cười
Tấm lòng khen tài vẹn tròn
Cành hoa tay thảo những nét màu
Như phượng múa rồng tung bay.’

Thực sự, đến thời điểm này, tài năng của ông đồ đã được thể hiện rõ trong không khí sôi động của phố phường, lúc này mọi người đều ngưỡng mộ và tôn trọng tài năng ấy. Tài năng ‘Phượng múa rồng tung bay’ của ông đồ, được thể hiện một cách tinh tế dưới bàn tay tài ba nghệ thuật, đã làm cho văn học Hán tỏa sáng. Những người tiên phong trong văn hóa dân tộc. Những bài thơ thiêng liêng ông viết đã trở thành món quà đón xuân, làm đẹp ngôi nhà, và tạo nên tình cảm gia đình ấm áp hơn.

Thật đáng tiếc, một truyền thống đẹp của dân tộc đang dần biến mất, hình ảnh rực rỡ mùa xuân dần phai nhạt khi văn hóa phương Tây lan tỏa vào đất nước ta. Mọi người quên đi câu đối tết và thay vào đó là những bức tranh sặc sỡ.

‘Nhưng mỗi năm lại trống trơn
Người thuê viết đã ra đi đâu?
Giấy đỏ buồn không hồng
Mực ướt trong nỗi buồn sầu.’

Độc giả đã thất vọng, cảm xúc hân hoan đã biến mất khi đọc những dòng thơ này.

Trước sự mất mát, ra đi của ông đồ và những người tiền bối, lòng trắc ẩn của nhà thơ Vũ Đình Liên được biểu lộ qua sự đồng cảm, nỗi buồn và hối tiếc không dứt.

Nhưng mỗi năm lại vắng vẻ
Người thuê viết ơi đâu rồi?

Ta thấy như nhà thơ lang thang tìm lại dấu vết của những người tiền bối. Tiếng thơ đau lòng khi những tài năng bị đẩy ra xa xã hội. Trong bức tranh đó, tình hình của ông đồ trở nên ảm đạm hơn. Người viết càng ngày càng ít đi và ‘mỗi năm mỗi vắng’. Hình ảnh ông đồ giữa phố đông chỉ còn là một kí ức xa xôi. Sự xót xa của nhà thơ được thể hiện rõ khi ông đồ và những người tiền bối dần ra đi:

‘Giấy đỏ buồn không hồng
Mực trong nghiên sầu đắng.’

Tâm trạng buồn bã, khiến cho những vật dụng từng gắn bó với ông cũng trở nên buồn bã theo: giấy không còn đỏ như trước, mực trong nghiên cũng u buồn theo. Dường như, giấy, nghiên và mực không có cảm xúc, nhưng nỗi buồn của giấy, nghiên và mực mà nhà thơ Vũ Đình Liên cảm nhận được chính là nỗi buồn, sầu thảm của ông đồ và những người tiền bối. Nỗi buồn ấy không chỉ lan tỏa vào công cụ làm việc mà còn lan tỏa vào cảnh vật thiên nhiên, làm cho không gian trở nên lạnh lẽo và cô đơn.

‘Ông đồ ngồi đấy vắng vẻ
Không ai qua lại biết nơi
Lá vàng phủ đầy giấy trắng
Ngoài trời mưa bay bụi.’

Dù ông đồ vẫn ngồi đó, nhưng đã bị mọi người quên lãng, ông chỉ còn là một di vật tiều tuỵ đáng thương của ‘một thời tàn vụn’. Và có lẽ từ đó, ông mãi mãi vắng bóng. Điều này cũng là điều dĩ nhiên, phũ phàng. Một ngày nào đó, khi hoa đào nở lại, mọi người bất ngờ nhận ra sự vắng bóng của ông đồ giữa sự nhộn nhịp của đời. Một tiếng gọi tha thiết vang lên:

‘Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ quen
Những người muôn thuở cũ
Hồn ở nơi nào giờ?’

Trong hai khổ thơ đầu, độc giả cảm nhận được niềm phấn khích, hân hoan, nhưng ba khổ thơ sau lại là biểu hiện của sự buồn bã, xót xa, với sắc màu nhạt nhòa. Bây giờ, ông đồ và những người xưa đã trở nên vô nghĩa giữa cuộc sống. Bài thơ kết thúc bằng những hình ảnh, câu thơ mang nặng nỗi buồn sâu sắc của tác giả Vũ Đình Liên.

Đọc xong bài thơ ‘Ông đồ’, ta cảm nhận được sự diễn đạt sâu sắc về tình yêu thương con người trước số phận đắng cay của ông đồ, nhưng lại mang trong đó một vẻ đẹp tinh tế. Bài thơ còn thể hiện một tâm hồn cao quý và nhân ái, một trái tim giàu yêu thương, ca ngợi tài năng của người xưa và khuyên bảo chúng ta hãy sống để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá của dân tộc. Văn hoá đó xứng đáng với một tầm cao mới.

Bài làm 3

Giá trị của một bài thơ không phải được xác định bằng giá trị của nó hiện tại mà là em cảm nhận được sức sống vĩnh cửu của nó đến từ quá khứ và tương lai. Một bài thơ có thể đúc kết tất cả giá trị của một quá khứ huy hoàng và truyền đạt nó cho tương lai thì là một bài thơ xứng đáng được khắc sâu vào tâm trí con người. Và ‘với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã đánh thức những khao khát tinh thần sâu sắc của dân tộc nên nó vẫn nguyên vẹn suốt thời gian’.

Trước hết, bài thơ ‘Ông đồ’ đã động vào những động lực tâm linh của giống nòi với cảm xúc sâu sắc nhớ nhà cho những giá trị văn hóa dân tộc đang bị lụi tàn:

Mỗi năm, khi hoa đào nở
Ông già ông đồ lại hiện về
Đặt mực Tàu, giấy đỏ
Nơi phố đông người qua lại

Hoa đào là biểu tượng của mùa xuân ở miền Bắc. Hình ảnh hoa đào nở như một kỷ niệm về những ngày xuân thường trực, mỗi năm tuân theo quy luật thiên nhiên vĩnh cửu. Trong cảnh đẹp đó, ông đồ xuất hiện như một biểu tượng của truyền thống lâu đời là việc viết chữ đỏ vào ngày tết. Mỗi khi tết đến, mọi người thường thăm ông đồ để xin câu đối đỏ, chữ Nho viết trên tờ giấy đỏ với hi vọng về một năm mới an lành. Lúc đó, ông đồ trở thành một biểu tượng được trân trọng:

Bao nhiêu người muốn sử dụng tài
Đều ngợi khen khả năng:
‘Hoa tay nghệ sĩ tạo nên nét
Như phượng rồi, như rồng’

Với bài thơ Ông đồ, Vũ Đình Liên đã đánh thức những cảm xúc tâm linh sâu sắc của dòng họ

Nhiệm vụ của ông là nhiệm vụ sáng tạo của một nghệ sĩ, những chữ ông viết ra giống như phượng vút rồng bay, không chỉ đẹp mà còn cao quý. Viết những dòng này với giọng thơ đầy cảm hứng, ta có thể cảm nhận được tâm trạng của nhà thơ đối với phong tục này. Nhưng điều đó không được lưu lại mãi mãi:

Nhưng mỗi năm, sự vắng bóng trở nên rõ rệt
Người thuê viết bây giờ ở đâu?
Giấy đỏ buồn không còn tươi sáng
Mực đọng trong nỗi buồn thẹn…

Đoạn thơ thứ ba với giọng thơ lặng im có lẽ là do tâm trạng của người viết chúng ta đang lặng đi. Câu hỏi ‘người thuê viết bây giờ ở đâu’ xoay sâu vào lòng đọc giả, câu hỏi này không chỉ đơn giản là về người thuê viết. Sự bận rộn của những người thuê viết chữ xưa chính là biểu hiện của tình cảm của con người với một thời kỳ trọng đạo Nho truyền thống nói chung và những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung, nhưng giờ đây đã biến mất, điều này có thể làm đau lòng, chỉ trỏ đến sự suy tàn của những giá trị văn hóa truyền thống xưa. Sự nhân hóa của ‘giấy đỏ buồn’ – ‘mực thẹn’ đã cụ thể hóa nỗi buồn trong con người, có lẽ, với từ ‘buồn’, từ ‘thẹn’, nhà thơ muốn người đọc cảm nhận rằng, vì con người đã trở nên lạnh lùng nên giấy cũng không còn sáng như trước, mực vì buồn mà cũng không dám tự giới thiệu, chỉ đọng lại trong nỗi thẹn. Nỗi buồn của ông đồ hay là của nhà thơ đã lan tỏa ra cảnh vật? Chữ cao quý là dành để trao, nhưng ông đồ phải bán chữ, điều này là biểu hiện của sự suy giảm về giá trị văn hóa, thậm chí khi mang ra bán, cũng không còn ai mua, điều này làm đau lòng cho một nền văn hóa Nho cổ truyền.

Nên Xem:  Kể lại kỉ niệm với thầy cô giáo cũ

Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai nhận ra
Lá vàng rơi trên trang giấy
Ngoài trời, cơn mưa phủ bay

Một ông đồ ngày xưa được vinh dự, được tôn kính nhưng giờ đây như một kẻ bị lãng quên ngoài lề xã hội. Ông vẫn trung thành với cây bút ‘vẫn ngồi đó’ nhưng thế giới xung quanh đã thay đổi, không còn ai chú ý đến ông, sự tồn tại của ông không để lại dấu ấn. Có lẽ nỗi buồn đã đến mức cảm giác chiếc lá vàng rơi trên trang giấy cũng không còn đau lòng, mà có lẽ đó là lá vàng của một mùa thu sắp tàn của thời đại Nho Học. Trong thời đại này, với gió Á và mưa Âu, cuộc sống như một cơn gió độc cuốn trôi đi những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm cho chúng ngày càng phai mờ và suy tàn, khiến cho cả hồn dân tộc bao trùm bởi một tâm trạng buồn thảm như những cơn mưa bụi không dứt.

Năm nay, khi đào lại nở
Không còn thấy ông đồ xưa
Những người từ muôn đời
Hồn họ đã đi đâu?

Câu hỏi ‘Hồn họ đã đi đâu’ đọng lại trong tâm trí của người đọc. Câu hỏi này chứa đựng sự đau đớn của tác giả khi nhìn thấy sự biến đổi của con người, sự suy tàn dần của các giá trị văn hóa truyền thống cùng với việc một cách lắng đọng, lời mời gọi tâm hồn đất nước, làm đậm lên tiếng chuông cảnh báo về sự mất mát không thể phục hồi của các giá trị truyền thống.

Bài thơ đã đặt ra một vấn đề lâu đời, đó là làm thế nào để giữ được tâm hồn dân tộc trước sự thay đổi của thời đại? Câu hỏi này sẽ vẫn giữ giá trị mãi mãi, nó đụng chạm đến tâm hồn cốt lõi của dân tộc và do đó, tác phẩm sẽ sống mãi trong lòng độc giả.

‘Ông đồ’ sẽ mãi mãi có vị thế trong tâm trí của độc giả và trong văn học dân tộc ngày nay cũng như trong tương lai.

Bài làm 4

Pôn-ê-luya từng nói: thơ ca phải từ chân trời của một người đến chân trời của muôn người. Một tác phẩm thật sự phải vượt qua mọi giới hạn, chạm vào những cảm xúc sâu thẳm nhất của tâm hồn con người – điểm gặp gỡ chung của dòng họ, chỉ như vậy mới có thể kết nối với con người cho đến tận cùng, mới có thể tồn tại mãi mãi trong lòng người đọc. Và, với bài thơ ‘Ông đồ’ của Vũ Đình Liên, đã vẽ nên những cảm xúc tâm linh sâu sắc của dòng họ nên nó sẽ mãi mãi sống đọng trong lòng.

Trong giai đoạn thơ Mới, Vũ Đình Liên viết bài thơ ‘Ông Đồ’, nơi mà cái đẹp luôn kề bên nỗi buồn. Buồn thương, là cảm xúc chính của các thi sĩ thơ Mới, do sự bất hào, bất lực, bất mãn với thực tại dân tộc, họ lẩn tránh mà không tìm được lối thoát, mất sợi dây liên kết với cuộc sống, do đó luôn bơ vơ, bế tắc. Mỗi thi sĩ tìm một cách thoát ly riêng. Nếu Xuân Diệu trốn vào tình yêu, Thế Lữ thoát ra thế giới tiên, Lưu Trọng Lư mơ màng trong cõi mộng, Huy Cận tìm kiếm cái xa trong không gian, thì Vũ Đình Liên tìm cái xưa trong thời gian, đó là vẻ đẹp của một thời kỳ đã qua, vẻ đẹp của một nét văn hóa truyền thống của dân tộc: chữ Nho.

Với việc mở cửa, giao lưu, cũng như do hoàn cảnh của đất nước, chữ Nho không còn được ưa chuộng như trước. Nếu nhìn lại ông Đồ xưa kia:

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay’.

Bài thơ ‘Ông Đồ’ mang lại cảm xúc hoài niệm về những giá trị truyền thống của dân tộc.

Ngày nay, thời đại thay đổi, ông Đồ chỉ còn là một di sản tiều tụy, một biểu tượng của một thời kỳ tàn tạ.

Mỗi năm lại thêm vắng vẻ, Người thuê viết đâu bây giờ? Giấy đỏ buồn không thắm đẹp, Mực đọng nghiên sầu ướt lòe… Ông Đồ vẫn đây một mình, Qua đường ai biết hay không? Lá vàng rơi trên trang giấy, Ngoài trời mưa bụi phủ kín.

Ông Đồ bị đẩy vào hoàn cảnh của một nghệ sĩ bị lãng quên, một cô gái mất đi vẻ đẹp. Duyên đưa gặp, duyên đi tan, Hết duyên sớm trưa về một mình. Ông Đồ ngồi đây mà không ai hay biết. Ông Đồ giữa cuộc sống hối hả của thế giới hiện đại chỉ như một hòn đảo cô đơn, lạnh lẽo. Hiện thực là như vậy và chỉ như vậy, nó là sự trống rỗng. Nhưng trong thơ, bên cạnh sự hiện thực đó là nỗi lòng của tác giả, khiến giấy đỏ trở nên nhạt nhẽo và mực biến thành nỗi buồn thương. Biện pháp nhân hóa được sử dụng một cách tinh tế, khiến những vật dụng vô tri trở nên mang nặng một linh hồn, như làm cho tình cảm thêm đậm sâu trong tâm trí của người đọc. Đặc biệt là sự phối hợp với cảnh mưa gió. Mưa là của trời đất hay là của tâm hồn người, không biết nữa, chỉ biết rằng có một di sản tiều tụy đáng thương ngồi đây, trong dáng ngồi tĩnh lặng, giữa những giọt mưa bụi bay. Mùa xuân lại có lá vàng, một sự tương phản hoàn hảo, nhưng cái tương phản ấy lại là điểm nối liên kết tình cảm có ý nghĩa:

‘Cảnh nào chẳng đọa nỗi buồn, Người buồn chẳng thấy niềm vui đâu bao giờ?’

Nỗi lòng vấn vương vọng lên, xót xa kích thích đáy lòng.

Hoa đào lại nở mỗi năm, Không thấy ông đồ xưa trầm. Người muôn năm cũ hồn ở đâu? Còn lại bây giờ đâu vẫn?

Ông đồ bị đày ra rìa xã hội, một mình ôm bút giấy mực trở về với mảnh đất của mình. Người ta đã nhìn thấy sự cố sức của ông, đã chú ý đến ông, nhưng không làm gì cả. Bóng dáng của ông không chỉ là của một người hay một nghề, mà là của cả một thời đại, của tâm hồn chúng ta. Bây giờ mới thấy tiếc nuối, nhưng quá muộn rồi. Câu thơ ‘Người muôn năm cũ’ kỳ lạ, nhưng không ai thấy khó hiểu: thực tế là ông đồ đã xa rồi, đã biến mất vào trong lịch sử. Câu trên gợi lên cảm giác hoài niệm.

Nên Xem:  Dàn ý thuyết minh chiếc áo dài

Trong xã hội hiện đại, sự hào phóng đã làm mất đi những nét đẹp văn hóa của dân tộc. Ông Đồ của Vũ Đình Liên đã lặng lẽ thể hiện tấm lòng yêu nước, kêu gọi mọi người hãy trở về với bản sắc của mình. Với bài thơ ‘Ông đồ’ Vũ Đình Liên đã chạm đến những rung cảm tâm linh của dân tộc.

Bài làm 5

Thơ của Vũ Đình Liên đậm chất nhân văn và niềm nhớ nhà. Bài thơ ‘Ông đồ’, viết vào năm 1935-1936, vẫn còn thu hút và chạm đến tâm hồn của người Việt.

Hai khổ đầu của bài thơ phản ánh hình ảnh rực rỡ của ông đồ trong quá khứ. Nhà thơ mở đầu với không khí Tết truyền thống:

‘Mỗi độ Xuân về, Hoa đào nở rộ Bóng ông đồ già Bên cạnh mực giấy đỏ.’

Trong bức tranh sặc sỡ kia, hình ảnh ‘ông đồ già, bày mực tàu giấy đỏ, bên phố đông người qua’ như điểm nhấn rực rỡ. Ông đồ và mực tàu giấy đỏ như một phần của sự hối hả, náo nhiệt của phố xá. Mỗi năm, lại thấy ông đồ ngồi viết câu đối trên lề phố, trở nên thân quen như hơi thở mỗi dịp Tết đến xuân về. Sự xuất hiện của ông thu hút sự chú ý của mọi người:

‘Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay’

Mọi người đến quanh ông để thuê ông viết, để chiêm ngưỡng tài năng viết đẹp như phượng múa rồng bay và không ngừng tán dương. Những câu thơ sôi động như tiếng cười khiến người đọc cảm nhận niềm hạnh phúc bình dị của ông đồ. Ông trở thành nghệ sĩ thể hiện trước đám đông và quan trọng hơn, là phần của cuộc sống, hữu ích cho mọi người. Như vậy, với những hình ảnh đời thường, hai dòng thơ đã tái hiện một thời vàng son của ông đồ, của thế hệ nhà nho. Nhà thơ cũng kín đáo tỏ ra tự hào về giá trị văn hóa dân tộc – văn hóa chữ nho.

Khổ thơ cuối cùng là cảm nhận sâu sắc về thời tàn của ông đồ và là lời thương hối chân thành từ tác giả:

‘Mỗi năm lại thấy vắng vẻ Người thuê viết đâu hỡi người? Giấy đỏ buồn không thắm lên Mực đọng trong nghiên sầu.

Hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ bên lề phố ngày Tết vẫn hiện lên, nhưng mọi thứ đã khác đi, hoàn toàn trái ngược với quá khứ. Từ ‘mỗi’ kèm theo câu hỏi từ từ gợi lên nỗi ám ảnh: theo thời gian, người thuê viết cứ một mình vắng bóng, để lại nỗi hốt hoảng, lạc lõng, buồn bã trong lòng người viết thuê và khơi sâu vào nỗi cô đơn, tiếc nuối, xót xa. Đọc câu thơ, ta dễ dàng hình dung: trên lề phố, một người già đơn độc đang lẻn vào dòng người tấp nập đi sắm tết, xem có ai còn nhớ đến sự hiện diện của mình không. Ông đồ ngồi lặng lẽ buồn thiu trong cảnh vắng vẻ. Nỗi buồn dường như thấm vào cả những vật vô tri vô giác. Màu giấy đã từng đỏ thắm giờ vẫn đỏ nhưng không thắm lên được vì không ai đụng đến, trở thành vô duyên, buồn bã. Mực đọng không được bút lông thấm vào nên mực đọng lại bao nỗi buồn. Biện pháp nhân hóa ‘giấy buồn, nghiên sầu’ đã truyền nỗi buồn của con người vào giấy mực, làm cho nỗi buồn càng sâu sắc, thấm vào lòng. Tóm lại, những câu thơ bình dị, hình ảnh thơ chắt lọc, hàm súc không chỉ tái hiện tình cảnh đáng thương của ông đồ mà qua mỗi từ mỗi lời nhà thơ đã gửi vào đó biết bao nỗi tiếc nuối, thương cảm trước một lớp người sinh ra không gặp thời nên bị lãng quên, lạnh lùng.

Cảm nhận sâu sắc và niềm thương cảm chân thành của nhà thơ về số phận tàn tạ của ông đồ trong buổi nho học suy tàn được thể hiện qua khổ thơ cuối cùng:

‘Ông đồ vẫn ngồi đấy một mình Dưới trời lá vàng rơi trên giấy Ngoài kia mưa bụi phủ bày.

Hai câu thơ đầu thể hiện sự đối lập xót xa giữa cái không đổi và cái đã thay đổi: Ông đồ vẫn ngồi đó như xưa nhưng cuộc đời đã khác xưa. Đường phố vẫn đông người qua lại nhưng không ai biết đến ông, mặc dù ông vẫn kiên trì cố gắng bám vào cuộc sống, vẫn muốn có mặt trong cuộc sống. Ông đồ ngồi giữa phố đông mà lòng trống vắng, sụp đổ vì bị cuộc sống, mọi người lãng quên. Lòng ông trống vắng, sụp đổ nên trời đất cũng lạnh lẽo, thê lương. Hai câu thơ tả cảnh nhưng chính là tả nỗi lòng. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh ông đồ ngồi bó gối trên vỉa hè, lá vàng rơi trên giấy đỏ mà không buồn nhặt, mặt ngơ ngác buồn rầu nhìn ra màn mưa bụi mịt mờ. Lá vàng rơi bao giờ cũng gợi lên cảm giác buồn bã, tàn lụi cũng như vận ông đồ đã đến lúc tàn suy. Mưa bụi nhẹ bay lất phất ngoài trời gợi sự ảm đạm, lạnh lẽo hay là mưa trong cõi lòng ông tan nát. Giọng thơ trầm lắng, ngậm ngùi, hình ảnh hơ gợi cảm cùng với lòng cảm thương chân thành của nhà thơ đối với một lớp người sinh ra không gặp thời đã cho ra đời những câu thơ có cánh đậu nhẹ vài tâm hồn người để rồi càng đọc càng thấy bâng khuâng, ngậm ngùi, thương cảm.

Cảm nhận sâu sắc và niềm thương cảm chân thành của nhà thơ về số phận tàn tạ của ông đồ trong buổi nho học suy tàn được thể hiện qua khổ thơ cuối cùng:

Khổ thơ cuối cùng thể hiện sự vắng bóng của ông đồ và trực tiếp bộc lộ tình cảm của nhà thơ:

Cuối cùng, tứ thơ ‘cảnh cũ người đâu’ vẫn gợi nhớ về sự mất mát tạo ra cảm giác hẫng hụt, chơi vơi, xót xa, thương cảm. Bài thơ kết thúc bằng một câu hỏi bâng khuâng, tiếc nhớ, phản ánh tâm tư của nhà thơ. Từ ‘xưa, muôn năm cũ’ khơi gợi sâu vào nỗi xa vắng, ngậm ngùi. Từ sự vắng bóng của ông đồ xưa, nhà thơ xót xa nghĩ đến bao thế hệ nhà nho đã bị lãng quên, chìm sâu trong buổi nho học suy tàn. Trong tâm sự của nhà thơ có niềm cảm thương chân thành trước những số phận hẩm hiu, bất hạnh, có niềm hoài cổ, ngưỡng mộ và tiếc nhớ một nét đẹp trong quá khứ. Nhà thơ không phải bảo thủ đến mức cứ gắn bó với mực tàu, giấy đỏ, mà điều quan trọng là nhà thơ biết gắn bó và trân trọng một lớp người đáng kính, một nét đẹp văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi người Việt Nam- một tình cảm một thái độ giàu chất nhân văn. Chính vì vậy, nhà thơ đã chạm vào những rung động tâm linh của giống nòi nên tác phẩm sẽ bất diệt mãi với thời gian.

hochoi.net - Học Hỏi

Có thể sử dụng ctrl + F để copy code nhanh hơn nhé!