Trang chủ / Văn Mẫu THCS / Văn lớp 8 / Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên

Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên

Đề bài: Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên

Bài làm 1

Trong những ngày Tết đến xuân về náo nức trên mọi nẻo đường, người yêu thơ lại khẽ lắng mình trong một nhịp thơ giản dị đầy nhân văn của nhà thơ Vũ Đình Liên: bài thơ “Ông đồ”.

Bài thơ ra đời khi ông đồ đã trở thành cái di tích của một thời tàn. Nho học đã bị thất sủng, người ta đua nhau chạy theo thời đại với chữ Pháp chữ Tây.

Hai đoạn đầu bài thơ, tác giả giới thiệu những ngày huy hoàng của ông đồ:

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay.

Những lời khen thật hào phóng, nhưng nghĩ kĩ đó chỉ là lời khen của những người ngoài giới bút nghiên. Đi viết câu đối thuê, bản thân việc ấy đã là nỗi lận đận, là bước thất thế của người theo nghiệp khoa bảng. Đỗ các thành quan nghè, quan thám, đỗ thấp thì cũng ông cử, ông tú, chứ ông đó là chưa đỗ đạt gì, công chưa thành, danh chưa toại, đành về quê dạy học, bốc thuốc, hay xem lí số ở nơi đô hội như có lần Tản Đà đã làm. Ngày tết, mài mực bán chữ ngoài vỉa hè chắc cũng là việc bất đắc dĩ của nho gia. Chữ thì cho chứ ai lại bán. Bán chữ là cái cực của kẻ sĩ ở mọi thời. Bà con yêu quý và cũng thán phục cái thú chữ mà bà con không biết, hay chỉ võ vẽ, nên mới khen lao đến vậy. Lời khen này không mang lại vinh quang cho ông đồ, có thể ông còn tủi nữa, nhưng nó an ủi ông nhiều, nó là cái tình của người đời vào hồi vận mạt của ông. Tác giả giới thiệu: cùng với hoa đào, mỗi năm mới có một lần chứ nhiều nhặn gì đâu, giấy đỏ mực tàu, chữ nghĩa thánh hiền bày trên hè phố. Đừng nghĩ đến chuyện khoa bảng, hãy nghĩ trên cương vị người bán, thì đây là hai đoạn thơ vui vì nó nói được sự đắt hàng, ông đồ còn sống được, có thể tồn tại trong cái xã hội đang biến động này. Nhưng cuộc đời đã không như thế mãi, cái ý thích của người ta cũng thay đổi theo thời cuộc. Lớp người mới lớn không có liên hệ gì để mà quyến luyến cái thứ chữ tượng hình kia. Cái tài viết chân, thảo, triện, lệ của ông đồ chữ tốt kia, họ không cần biết đến:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu…

Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài giời mưa bụi bay

Ông đồ rơi vào tình cảnh một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc. Còn duyên kể đón người đưa, Hết duyên đi sớm về trưa một mình. Ông đồ vẫn ngồi đấy mà không ai hay. Cái hiện thực ngoài đời là thế và chỉ có thế, nó là sự ế hàng. Nhưng ở thơ, cùng với cái hiện thực ấy còn là nỗi lòng tác giả nên giấy đỏ như nhạt đi và nghiên mực hóa sầu tủi, Hay nhất là cộng hưởng vào nỗi sầu thảm này là cảnh mưa phùn gió bấc. Hiện thực trong thơ là hiện thực của nỗi lòng, nỗi lòng đang vui như những năm ông đồ “đắt khách” nào có thấy gió mưa. Gió thổi lá bay, lá vàng cuối mùa rơi trên mặt giấy, nó rơi và nằm tại đấy vì mặt giấy chưa được dùng ỉến, chẳng có nhu cầu gì phải nhặt cái lá ấy đi. Cái lá bất động trên cái chỗ không phải của nó cho thấy cả một dáng bó gối bất động của ông đồ rồi nhìn mưa bụi bay. Văn tả thật ít lời mà cảnh hiện ra như vẽ, không chỉ bóng dáng ông đồ mà cả cái tiêu điều của xã hội qua mắt của ông đồ. Tác giả đã có những chi tiết thật đắt: nơi ông đồ là bút mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ơ không ai hay. Thể thơ năm chữ vốn có sức biểu hiện những chuyện dâu bể, hoài niệm, đã tỏ ra rất đắc địa, nhịp điệu khơi gợi một nỗi buồn nhẹ mà thấm. Màn mưa bụi khép lại đoạn thơ thật ảm đạm, lạnh, buồn, vắng. Như vậy cũng chỉ với tám câu, bốn mươi chữ, đủ nói hết những bước chót của một thời tàn. Sự đối chiếu chi tiết ở đoạn này tới đoạn trên: mực với mực, giấy với giấy, người với người, càng cho ta cái ấn tượng thảng thốt, xót xa của sự biến thiên.

Có một khoảng thời gian trôi qua, khoảng trống của đoạn thơ trước khi vào bốn câu kết:

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Hãy trở lại câu thơ đầu bài Mỗi năm hoa đào nở để thấy quy luật cũ không còn đúng nữa. Ông đồ đã kiên nhẫn vẫn ngồi đấy, nhưng năm nay ông không còn kiên nhẫn được nữa: Không thấy ông đồ xưa. Ông đã cố bám lấy xã hội hiện đại, lũ người hiện đại chúng ta đã nhìn thấy sự cố sức của ông, đã thấy ông chới với, nhưng chúng ta đã không làm gì, để đến bây giờ quay nhìn lại, mới biết ông đã bị buông rơi tự bao giờ. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người, của một nghề, mà là dáng của cả một thời đại, bóng dáng kí ức của chính tâm hồn chúng ta. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồi. Chúng ta hỏi nhau hay tự hỏi mình? Hỏi hay khấn khứa tưởng niệm, hay ân hận sám hối. Hai câu thơ hàm súc nhất của bài, chúng ta đọc ở đấy số phận của ông đồ và nhất là đọc được thái độ, tình cảm của cả một lớp người đối với những gì thuộc về dân tộc, về ngữ pháp câu thơ này rất lạ, nhưng không ai thấy cộm: Những người muôn năm cũ. Muôn năm, thật ra chỉ là vài ba năm, nhưng nói muôn năm mới đúng, thời ông đồ đã xa lắc rồi, đã lẫn vào với những bút, những nghiên rất xa trong lịch sử. Chữ muôn năm cũ của câu trên dội xuống chữ bây giờ của câu dưới càng gợi bâng khuâng luyến nhớ. Câu thơ không phải là nỗi đau nức nở, nó chỉ như một tiếng thở dài cảm thương, nuối tiếc khôn nguôi.

Bài làm 2

Bài thơ được viết vào năm 1936 và xuất bản trên tạp chí “Tinh hoa”. Xuất hiện trong bối cảnh Hán học mất dần tầm vóc vì sự xâm lấn của văn hóa phương Tây, thời ông đồ không còn được trọng vọng vì sự thay đổi của thời đại. Tên bài thơ đã gợi lên một vẻ đẹp đã qua, kết hợp cùng sự tiếc nuối sâu sắc.

Mỗi khi tết đến, bài thơ khắc họa ông đồ xuất hiện trên đường phố, viết những câu đối đỏ:

‘Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua’.

Tài năng viết chữ của ông đồ khiến mọi người trầm trồ, khen ngợi:

‘Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay’.

Rất nhiều người thuê ông để viết chữ, không chỉ trọng trách nét chữ mà họ còn kính trọng ông. Ông đã thể hiện tài năng qua các câu đối đỏ, với những nét chữ rồng múa phượng bay. Để viết những nét chữ tài hoa như vậy, ông đồ phải là một người hiểu biết về Hán học và chữ Nho. Sự so sánh ‘như phượng múa rồng bay’ thể hiện lòng tôn trọng của Vũ Đình Liên và cả cộng đồng đối với ông đồ, là sự trân trọng giá trị văn hóa truyền thống. Chơi chữ không chỉ là một sở thích, mà còn là thể hiện phẩm chất cao cả của người sáng tạo. Viết chữ không chỉ đẹp mắt mà còn nhanh nhẹn, điều này đúng là đáng kính ngưỡng. Những nét chữ uốn lượn một cách tinh tế dưới bàn tay của người có tri thức khiến mọi người muốn thuê ông để viết câu đối đỏ. Thời đắc ý, ông đồ hút khách đến với nét chữ phóng khoáng của mình. Cả người viết và người yêu thích chữ đều có sự đồng cảm sâu sắc vì họ đều biết trân trọng cái đẹp.

Tuy nhiên, khi thời thế thay đổi, ông đồ không còn được trọng vọng và ngưỡng mộ như trước:

“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”

Trước đây, việc thuê ông đồ viết chữ là điều phổ biến, nhưng giờ đâu họ đã đi đâu? Họ vẫn hiện diện trong cuộc sống hàng ngày, nhưng sự đổi mới của văn hóa phương Tây làm cho những giá trị văn hóa truyền thống dần mất đi. Tác giả mô tả một bức tranh hình vô cùng trống vắng và lạnh lẽo. Thời gian đã cuốn trôi đi những gì tươi đẹp từ quá khứ, gây ra nỗi đau và tiếc nuối. Câu hỏi nhẹ nhàng nhưng đau đớn: “Người thuê viết nay đâu?” vang lên, gợi lên cảm xúc đau lòng. Thực tế là thú chơi chữ không còn được ưa chuộng như trước, người chơi chữ và những người mua chữ giờ đây ngày càng ít đi theo năm tháng. Nỗi buồn tràn ngập không chỉ trong con người mà còn trong cảnh vật và những thứ không hồn. Giấy đỏ cũng biết cảm giác buồn, không còn thắm tươi như trước, màu sắc phai nhạt dần, thỏi mực đã chuốc lẫn nhưng vẫn chưa được sử dụng, đọng lại trong nghiên. Bằng cách nhân hóa, tác giả đã truyền đạt tâm trạng u uất của ông đồ và cũng là sự xót xa, thương cảm của nhà thơ.

Nền Hán học đã suy tàn nhưng với hy vọng giữ lại những giá trị văn hóa, ông đồ già vẫn kiên trì ngồi bên hè phố như những năm trước:

“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay”

Tuy nhiên, sự hiện diện của ông không thu hút sự chú ý, quan tâm như thời kỳ hoàng kim. Bóng dáng của ông lặng lẽ băng qua đường phố, lặng lẽ trên con phố mà không một ai để ý. Hình ảnh của ông đồ đã chìm vào quên lãng. Nó chỉ là “một di tích tiều tụy đáng thương của một thời kỳ suy tàn” (theo lời của Vũ Đình Liên). Sự mờ nhạt, phai màu được thể hiện qua hình ảnh chiếc lá vàng kèm theo không khí lạnh lẽo của cơn mưa bụi nhẹ nhàng, tạo nên bức tranh nhuốm màu tâm trạng. Mọi người đã đẩy ông đồ vào quên lãng, xem ông như một bóng người vô hình trong xã hội hiện đại.

Nên Xem:  Thuyết minh về cây bút bi

Vũ Đình Liên đã thể hiện nỗi xót xa, niềm hoài cổ qua những dòng thơ cuối cùng:

“Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”

Ông đồ đã thật sự vắng bóng, hoa đào vẫn rực rỡ mùi hương, cảnh vật vẫn tuần hoàn theo quy luật tự nhiên nhưng chúng ta không còn thấy sự hiện diện của ông nữa. Sự vắng bóng của ông khiến chúng ta không khỏi thương tiếc cho một giá trị tinh thần đã mất đi. Những người trước đây từng thuê ông đồ viết câu đối, những người từng tôn trọng ông nay đã thay đổi hoàn toàn. Họ đã bận rộn thích nghi với nền văn hóa mới từ phương Tây, tâm hồn họ cũng không còn chỗ cho những tinh túy của văn hóa truyền thống. Câu hỏi cuối cùng vang lên, gợi lên bi kịch và hối tiếc cho những điều đã mất.

Bằng cách sử dụng hình ảnh hoa đào ở đầu và cuối bài thơ, tác giả đã mô tả thành công sự đối lập của ông đồ trong thời kỳ hoàng kim và khi thất bại. Thể thơ năm chữ giúp nhà thơ truyền đạt cảm xúc một cách thuận lợi. “Ông đồ” là một dựa trên ký ức về những giá trị truyền thống, thể hiện lòng thương cảm sâu sắc của Vũ Đình Liên.

Bài làm 3

Ngày xưa trên bàn thờ tổ tiên, kế bên bánh chưng và mâm ngũ quả, những cặp câu đối tết là điều không thể thiếu. Điều này làm cho những ông đồ già trên vỉa hè phố trở nên đông đúc, thu hút nhiều người thuê viết chữ. Hình ảnh của họ, với khăn xếp đầu và áo thể, đã ghi sâu vào tâm trí của người Việt Nam. Nhà thơ Vũ Đình Liên là một trong số những người này, và bài thơ ‘Ông đồ’ của ông thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với tầng lớp người suy tàn và sự tiếc nuối về một truyền thống đẹp của dân tộc.

Bắt đầu bài thơ ‘Ông đồ’, hình ảnh ông đã xuất hiện trong dòng suy tưởng và kỷ niệm của tác giả:

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Cấu trúc mỗi dịp lại thể hiện ông đồ như một hình ảnh quen thuộc không thể thiếu trong mỗi Tết của người Việt Nam. Với sự kết hợp của màu hồng của hoa đào, màu đỏ của giấy, màu đen của mực tàu và sự náo nhiệt của ngày Tết, hình ảnh ông đồ trở nên sống động trong bức tranh mùa xuân. Dù chỉ là một phần nhỏ ven đường, nhưng trong thơ, ông đồ trở thành trung tâm, hòa mình vào không khí vui tươi của ngày Tết, thể hiện tài năng và tình yêu thương của mình:

Bấy nhiêu tâm hồn đắm chìm
Ngợi khen nghệ sĩ tài năng
Hoa tay vẽ lên đẹp
Như hòa nhạc nhẹ nhàng bay cao

Từ đâu cảm nhận được sự nghiệp viết chữ đã từng là niềm đam mê của mọi người. Bản thân ông đồ thu hút sự chú ý, trở thành trung tâm của lòng kính trọng và khâm phục. Hạnh phúc không chỉ đến từ sự đông người thuê viết mà còn từ những lời khen tài – Bởi ông có tài viết chữ tuyệt vời. Ba phụ âm ‘t’ hiện hữu như bản nhạc hoàn hảo để khen ngợi tài năng xuất sắc của ông. Giữa bức tranh người đón đợi, ông trỗi dậy như một nghệ sĩ, tung hết tâm huyết và tài năng của mình để rồi được mọi người ngưỡng mộ. Với lòng ngưỡng mộ đó, Vũ Đình Liên thể hiện lòng tự hào về truyền thống đẹp đẽ của dân tộc trong việc sáng tác câu đối chữ. Nhưng liệu bao nhiêu tâm hồn thuê viết có thể hiểu sâu xa ý nghĩa của từng câu, từng chữ để chia sẻ niềm vui, hạnh phúc với người tạo ra những dòng chữ ấy? Ở khổ thơ thứ ba, hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ vẫn nổi bật, nhưng mọi thứ đã thay đổi. Không còn đông người thuê viết – Ngợi khen tài năng mà thay vào đó là cảnh tượng trống trải đến đau lòng. Cảm xúc buồn thương hiện hình trong hai câu thơ cuối, giờ đây nó được thể hiện qua câu hỏi đầy trăn trở:

Nhưng mỗi năm càng trở nên vắng vẻ
Người thuê viết ẩn mình ở đâu?

Mỗi năm trôi qua, nhưng bóng đen của thời gian lại chen ngang, khiến chữ thường phải chịu sự biến đổi. Số lượng người yêu thích và tôn trọng chữ nho giảm đi từng năm, khách quen cũng mỗi người một nơi. Hy vọng nhỏ nhoi của Ông đồ, mong muốn đem chút tài nghệ vào mỗi dịp xuân về, dần tan biến trước cuộc sống khó khăn. Với câu hỏi sâu sắc, Vũ Đình Liên thể hiện niềm tiếc nuối cho thời kì rực rỡ, biến nó thành nỗi buồn sâu sắc, lan tỏa đến cả những vật dụng vô tri vô giác:

Giấy đỏ buồn không hồng
Mực ngừng nghiên cầu tình

Giấy đỏ – mảnh giấy ông đồ thường dùng để viết, mỏng manh và dễ phai màu. Nhưng ‘Giấy đỏ buồn không hồng’ – buồn vì đã lâu không sử dụng nên nó phai màu theo thời gian. Mực, chất đen thẫm ông đồ thường dùng để viết, ‘Mực ngừng nghiên cầu tình’ – ý là mực đã lâu, sẵn sàng để ông đồ thể hiện tài năng, nhưng lại đợi chờ mà không có cơ hội. Những từ buồn, sầu khiến giấy đỏ và mực tàu, ban đầu vô tri, trở nên sống động như con người. Nỗi buồn không chỉ thấm vào những dụng cụ hàng ngày, mà còn lan tỏa ra thiên nhiên, tô điểm không gian xung quanh trở nên u sầu, đầy xót xa:

Ông đồ ngồi đó lặng lẽ
Người qua không hay biết
Lá vàng rơi lên giấy
Mưa bụi ngoài kia bay

Mặc dù nghề viết chữ không còn được lòng người yêu mến và tôn trọng như trước, ông vẫn kiên trì ngồi bên lề đường, hy vọng sẽ nhận được sự chia sẻ và động viên từ người qua đường. Nhưng không có ánh mắt nào chú ý đến ông, không một trái tim nào chia sẻ cảm xúc với ông. Với cách miêu tả tinh tế, Vũ Đình Liên mô tả khung cảnh thiên nhiên, làm cho tâm trạng của ông đồ trở nên đặc biệt bi thảm, thấu hiểu:

Lá vàng rơi trên giấy mờ
Dưới bầu trời mưa bụi bay

Nhưng đúng là khó hiểu, tại sao lá vàng lại rơi trong mùa xuân? Có phải hình ảnh lá vàng rơi là biểu tượng của sự tàn lụi, mất mát về một thời kỳ, một cộng đồng và một truyền thống tươi đẹp của dân tộc Việt Nam – như chơi câu đối ngày tết giờ đã trở thành quá khứ. Hình ảnh của ông đồ cũng như lá vàng rơi, cố gắng giữ lại cuộc sống yên bình nhưng so với thời đại mới, chỉ còn là một chiếc lá úa tàn rơi xuống. Nỗi buồn âm thầm, tĩnh lặng, đã làm cho cơn mưa xuân – nguồn sức sống vững bền, trở nên xót xa và đầy đau thương:

Dưới bầu trời mưa bụi bay

Trời ơi – đó có lẽ là cách ngôn ngữ dân dụ của những người mà chúng ta có vẻ đã lâu không gặp, nhưng vẫn tồn tại đến ngày nay. Câu thơ làm hiện lên hình ảnh u tối của ông đồ trước cơn mưa bụi nhẹ nhàng. Dù chỉ là mưa bụi, mưa nhẹ thôi nhưng cũng đủ sức xóa tan những dấu vết của một thời đại. Dù đã mất đi lòng yêu mến và tôn trọng từ người khác, nhưng với nhà thơ, hình ảnh này vẫn đọng sâu trong trái tim:

Năm nay đào nở đẹp
Không gặp ông đồ quen

Mở đầu bài thơ Ông đồ nhẹ nhàng và kết thúc cũng với hình ảnh tương tự. Năm nay khi cây đào nở, chúng ta không còn thấy ông đồ ngồi bên lề đường, nhấm nháp hương vị sôi động của phố xá. Thời gian trôi, và hình ảnh quen thuộc đó dần chìm vào quên lãng. Tết đến, hoa đào nở rực, mọi người hối hả chuẩn bị cho tết, tràn đầy niềm vui và hy vọng. Tất cả đều rực rỡ, tươi mới. Nhưng nơi ông đồ đã làm nền, giờ đây chỉ còn lại như một kỷ niệm buồn của một thời đã qua, bị lãng quên, chỉ còn lại trong tâm hồn của thi sĩ Vũ Đình Liên. Cuộc sống trôi đi, cuộc sống yên bình và đẹp đẽ dần biến thành hình ảnh trống trải, bâng khuâng, khiến nhà thơ phải đặt ra câu hỏi đầy cảm xúc:

Những người đã qua cách đây
Hồn ở nơi nào bây giờ?

Hai dòng thơ cuối, tác giả đổ lên cảm xúc sâu sắc, khắc sâu nỗi buồn bất tận, thấu hiểu chiều sâu của tình cảm. Từ hình ảnh ông đồ, nhà thơ kết nối với hình ảnh những người muôn năm cũ, đặt câu hỏi xót xa: Hỏi mây hỏi trời, hỏi cuộc sống và hỏi về một thời đại, nhằm thể hiện sự đồng cảm với số phận của những người muôn năm cũ bị lãng quên. Câu hỏi từ tâm, nẩy lên như tự đặt, mang theo nỗi tiếc nuối và xót thương. Tất cả những điều đã từng rực rỡ bây giờ chỉ còn là một tấm hình nhạt nhòa, nhạt nhòa. Với sự khéo léo trong sử dụng tu từ, Vũ Đình Liên đã tái hiện hình ảnh ông đồ, một di tích tiều tụy đáng thương của thời đại đen tối, làm cho chúng ta lại càng cảm thương, đau lòng vì số phận của ông.

Chỉ với bài thơ Ông đồ, tác giả đã đánh thức trong lòng người một trái tim đầy thương tiếc không hồi kết. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được tình cảm của Vũ Đình Liên – một con người tràn đầy lòng nhân ái, sự cảm thông sâu sắc và lòng trung hiếu không ngừng.

Bài làm 4

Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ tiên phong của phong trào thơ mới. Các tác phẩm của ông, mặc dù không nhiều, nhưng đều là những tác phẩm nghệ thuật và nhân văn sâu sắc. Trong số những tác phẩm ông để lại cho đến ngày nay, Ông đồ là tác phẩm xuất sắc nhất. Bài thơ ông đồ là biểu tượng của sự hoài niệm của tác giả với nét đẹp truyền thống, đang bị lãng quên dần đi.

Nên Xem:  Cảm nghĩ về một người thân yêu nhất

Bài thơ bắt đầu khi nghệ thuật viết chữ bị lạc lõng, những giá trị nghệ thuật truyền thống hiện chỉ là mảnh vụn, ông đồ và chữ nho trở thành hình bóng đồng cảm khi bút lông được thay thế bằng bút chì

Hai dòng thơ đầu tiên, Vũ Đình Liên hồi tưởng về thời kỳ huy hoàng của ông đồ:

Mỗi năm, hoa đào rực
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Nơi phố đông đúc qua
Bao người thuê viết
Ngợi khen tài hùng tráng
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay

Khổ thơ đầu tiên mô tả thời gian và địa điểm làm việc của ông đồ. Thời gian là mùa xuân, thời kỳ tươi đẹp nhất trong năm, với hình ảnh hoa đào nở, làm ta biết ông đồ làm việc khi mọi thứ bắt đầu tươi mới. Không khí mùa xuân, hình ảnh hoa đào nở tươi thắm, kết hợp với ‘mực tàu giấy đỏ’ làm nổi bật bức tranh về ông đồ thời kỳ huy hoàng, tràn ngập sức sống. Việc lặp lại thời gian ‘lại’ thể hiện sự liên quan lâu dài giữa ông đồ và mùa xuân, công việc viết chữ của ông không chỉ diễn ra trong một năm mà kéo dài từ mùa xuân này sang mùa xuân khác. Địa điểm viết chữ của ông là ‘bên phố đông đúc’ nơi đám đông tấp nập mỗi khi xuân về, đặc biệt là những người quan tâm đến ông đồ ‘bao nhiêu người thuê viết’ và trân trọng tài năng của ông đồ ‘tấm tắc ngợi khen tài’. Tác giả mô tả nét chữ của ông đồ ‘hoa tay thảo những nét/ như phượng múa rồng bay’. Sự so sánh trong hai dòng thơ này thể hiện sự tôn trọng, ngưỡng mộ nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.

Hai dòng thơ tiếp theo tác giả tạo dựng hình ảnh ông đồ trong thời đại hiện đại, một nhà thơ lạc lõng giữa cuộc sống không còn đặc trưng, nơi mà chữ nho đã trở thành di tích lịch sử

Nhưng mỗi năm mỗi trống trải
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

‘Năm nay đào lại nở’ cảnh đẹp mùa xuân vẫn hiện diện, nhưng con người đã biến đổi, ‘Người thuê viết nay đâu’ là câu hỏi đầy băn khoăn và nỗi buồn của tác giả trước sự thay đổi trong tư duy của con người, mùa xuân vẫn tươi đẹp, nhưng con người đã quên đi vẻ đẹp văn hóa xưa. Đây là bức tranh của sự suy tàn của văn hóa chữ nho. ‘Giấy đỏ buồn không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu’ trước sự lãng quên của con người, đồ vật cũng bộc lộ nỗi buồn, hình ảnh nhân hóa khiến cho giấy đỏ và mực nghiên cảm thấy như con người, bị bỏ quên, giấy đỏ trở nên nhạt nhòa, mực đọng lại trong nỗi buồn, ‘nghiên sầu’ âm u.

Hình ảnh của ông đồ thời nay đã thay đổi, ‘ông đồ vẫn ngồi đó/ qua đường không ai hay’ nếu như trước đây là ‘bao nhiêu người thuê viết/ tấm tắc ngợi khen tài’ thì nay hình ảnh ông đồ âm thầm lặng lẽ, mờ phai dần trong sự lãng quên của mọi người. Nghề ông đồ, một lúc nghệ sĩ đã trở thành gánh nặng, không còn được đánh giá. ‘Nhưng mỗi năm mỗi trống trải/ Người thuê viết nay đâu/ Giấy đỏ buồn không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu/ Ông đồ vẫn ngồi đó/ Qua đường không ai hay/ Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay’ cảnh xuân vẫn tươi đẹp nhưng ông đồ bị bỏ quên, giấy đỏ và mực nghiên cảm thấy hờn tàn, lạc lõng trong bức tranh buồn của mùa xuân.

Khổ thơ cuối tác giả thể hiện nỗi lòng thương xót đối với ông đồ và một nét đẹp văn hóa đang mai một của dân tộc

Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ

Mở đầu bài thơ tác giả viết ‘Mỗi năm hoa đào nở/ Lại thấy ông đồ già’ kết thúc bài thơ tác giả viết ‘Năm nay hoa đào nở/ Không thấy ông đồ xưa’ cấu trúc đầu cuối liên kết bài thơ chặt chẽ, nhấn mạnh sự biến mất ngày càng rõ ràng của nét đẹp truyền thống dân tộc. Cảnh thiên nhiên vẫn tươi đẹp, hoa đào nở, nhưng ông đồ đã biến mất, ‘Bày mực tàu giấy đỏ’ ông đồ đã hoàn toàn mất trong bức tranh xuân không đổi, thời gian và cảnh vật quên lãng người xưa, hay là nét đẹp truyền thống đã biến mất? Câu hỏi tu từ ‘Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?’ là sự tiếc thương của tác giả với ông đồ và giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Với dạy thơ ngũ ngôn gieo vân chân, lời thơ giản dị nhưng sâu lắng, cô đọng, lời thơ như một câu chuyện thuật lại nét đẹp truyền thống xưa của dân tộc, kết cấu đầu cuối chặt chẽ, bài thơ chứa đựng đủ những yếu tố nghệ thuật độc đáo nhất. Qua những nét nghệ thuật tiêu biểu đó, tác giả thể hiện nỗi niềm xót thương đối với ông đồ cũng như tiếc nuối cho sự mất đi của một nền văn hóa dân tộc.

Bài làm 5

Mỗi người đều mang một quê hương và cảm thức riêng về quê hương. Trong dòng chảy vô tận của thời gian, Vũ Đình Liên khắc khoải với lo ngại về sự tàn phai mai một của bản sắc văn hóa. Với ‘Ông đồ’, nhà thơ cảnh báo về ý thức bảo tồn bản sắc dân tộc, về những vẻ đẹp và giá trị của một thời điểm rực rỡ, thách thức chúng ta để dừng lại suy ngẫm về quê hương, nguồn cội, và trách nhiệm của chúng ta.

Bài thơ xuất hiện khi ông đồ đã trở thành một di tích của thời đại suy tàn. Nho học đã bị coi thường, mọi người hướng về thời đại mới với chữ Pháp và chữ Tây.

Đoạn đầu bài thơ mở đường cho những ngày hoàng kim của ông đồ:

Nhiều người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay vẽ những nét
Như phượng múa rồng bay.

Thời kỳ chữ Nho được tôn trọng, những nét chữ vuông vắn, tươi sáng, đựng đầy giá trị của văn hóa lâu dài, ông Đồ với tài năng đặc biệt được ngợi khen. Sự tôn trọng từ mọi người khiến cho nghệ sĩ cảm thấy chân quý. Thế nhưng, thời gian không ngừng biến đổi và cuốn trôi những giá trị vững bền. Trong dòng thời gian đó, ông đồ cũng không tránh khỏi số phận:

Nhưng mỗi năm, càng trở nên hiu quạnh
Người thuê viết ở đâu nay?
Giấy đỏ buồn chẳng tươi tắn
Mực đọng trong nghiên đau đáu…
Ông đồ vẫn ngồi lặng lẽ
Qua đường, không ai nhận ra
Lá vàng rơi, khuất giữa trang giấy
Ngoài trời, mưa bụi bay xa.

Ông đồ đối diện với sự đày đọa của một nghệ sĩ bị lãng quên, như cô gái mất nhan sắc. Duyên cũ đã kết thúc, huy hoàng từng ngày qua. Ông đồ ngồi đó, tưởng chừng như bị lãng quên. Trong xã hội hiện đại hối hả, ông đồ giống như một đảo lạc lõng, đơn độc. Hiện thực là vậy, là sự ế chỗ. Tuy nhiên, trong thơ, cùng với hiện thực ấy là nỗi lòng của tác giả, làm cho giấy đỏ phai màu và mực nghiên trở thành biểu tượng của nỗi buồn. Sự nhân hóa kỹ thuật giúp đẩy những đối tượng vô tri trở nên sống động, khiến chúng nặng nề với tâm hồn người đọc. Cảnh mưa phùn và gió bấc càng làm đậm sâu nỗi đau này. Mưa có thể là của trời đất, hoặc là của nỗi buồn giá rét âm ỉ trong tâm hồn con người. Không rõ, chỉ biết rằng có một di tích tiều tụy đáng thương ngồi đó, trong cảnh mưa bụi bay. Mùa xuân lại mang lá vàng, tạo ra một sự đối nghịch, nhưng nó giúp lý giải điều không lý giải trong tình cảm. Bởi giờ đây, ông đồ chỉ còn là di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn, và vì thế,

‘Cảnh nào cảnh chẳng chứa đựng nỗi buồn
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?’

Người xưa có câu ‘thi trung hữu họa’, và ở đây với bài thơ này quả là xác đáng. Mô tả rất súc tích như tranh vẽ, không chỉ có bóng hình của ông đồ mà còn là cái nhìn châm biếm của xã hội qua con mắt của ông đồ. Tác giả đã chọn những chi tiết đặc sắc: nơi ông đồ ngồi như bút mực, nơi bầu trời là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ơ không ai quan tâm. Thể thơ năm chữ mang đến sức sống cho những trạng thái buồn bã, và nhịp điệu tạo nên nỗi buồn nhẹ nhàng và thấm vào lòng người đọc. Đoạn mưa bụi đóng lại bức tranh thêm mảnh đen tối, lạnh lẽo, u buồn, trống trải. Một lúc bâng khuâng, chúng ta đành phải tự nhìn nhận bản thân qua câu hỏi đau lòng và thâm trầm của nghệ sĩ:

Hoa đào nở năm nay
Ông đồ xưa đi đâu mất?
Hồn những người xa xưa
Bây giờ nằm ở đâu?

Ông đồ bị đẩy ra khỏi xã hội, một mình bầy bập với bút và giấy, lặng lẽ trở về với đất mẹ. Ông cố gắng kết nối với thế giới hiện đại, nhưng chúng ta chỉ thấy sự cố gắng đó khi ông bị lãng quên, chúng ta nhìn thấy ông chiến đấu, nhưng chẳng làm gì cả, và giờ đây, chúng ta mới nhận ra rằng ông đã bị bỏ rơi từ lâu. Bóng hình của ông không chỉ là của một người hay một nghệ sĩ, mà còn là biểu tượng của một thời đại, của những ký ức trong tâm hồn chúng ta. Bây giờ mới thấy nuối tiếc, nhưng đã quá muộn. Hỏi trời, hỏi đất, hỏi người, hỏi cả một xã hội, rằng thế hệ chúng ta đã làm gì với nét đẹp văn hóa của dân tộc, đã cuốn phăng nó đi, có lẽ là chính chúng ta trong xã hội nhiễn tiền. Nhìn lại, chúng ta thốt lên bỗng nhớ về thứ gọi là ‘ngày xưa’. Có thể hỏi, có thể khan hiếm, hay có thể ân hận sám hối. Đó không chỉ là một câu hỏi, mà là lời thốt nên, là âm thanh nghẹn trong lòng nhà thơ khi chứng kiến cảnh tượng văn hóa dân tộc. Hai câu thơ hàm súc nhất của bài thơ, chúng ta đọc thấy số phận của ông đồ và cảm nhận tư duy, tâm tư của một tầng lớp đối với những gì thuộc về dân tộc, cụ thể hóa câu thơ rất lạ, nhưng không ai cảm thấy ngột ngạt: Những người muôn năm cũ. Muôn năm, chỉ vài ba năm thôi, nhưng nói muôn năm mới đúng, thời ông đồ đã cách xa, lẫn vào những bút, những nghiên rất xa trong lịch sử. Chữ muôn năm cũ trong câu trên đối lập với chữ bây giờ ở câu dưới tạo ra sự thèm khát hoài niệm.

Nên Xem:  Phân tích hình ảnh Bác Hồ hiện lên qua bài thơ Ngắm trăng

Với tâm hồn đậm sâu, lòng yêu quê hương, Vũ Đình Liên đã đánh thức trong lòng độc giả nét đẹp văn hóa của một thời vang bóng. Để nhìn lại chính mình, chúng ta tự hỏi lòng đã làm gì, đã làm gì với sự lơ lửng, vô tâm. Chúng ta tung bay mình, hồn nhiên tham gia cuộc đua, đánh mất bản sắc dân tộc để theo đuổi những niềm vui thời thượng, trong khi những giá trị vĩnh cửu đó mới chính là nguồn cội của mỗi cá nhân.

Bài làm 6

Đánh giá tài năng của một nghệ sĩ không chỉ bằng số lượng tác phẩm, mà còn là những dư vang tinh tế mà họ để lại trong tâm hồn người đọc. Vũ Đình Liên, một trong những nhà thơ có đẳng cấp như vậy, không phải với số lượng, mà với sức mạnh của từng từ ngôn ngữ, ông đã chạm vào trái tim chúng ta với bài thơ ‘Ông đồ’.

Bắt đầu bài thơ, tự nhiên và con người đều khám phá quy luật của mình:

Hoa đào nở mỗi năm
Nhưng ông đồ lại già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Nơi phố đông người qua

Sự kiện hoa đào nở gợi nhắc về một không khí tết, một ngày đầu xuân tuần hoàn theo quy luật vốn có của thiên nhiên. Trong sự vận động không ngừng của tự nhiên, ông đồ trở lại như một truyền thống, một hiện tượng tự nhiên với từ ngữ đầy tự nhiên: ‘lại’. Hình ảnh của ông liên quan đến mực Tàu, giấy đỏ, những biểu tượng của văn hóa nho gia xưa, là hình ảnh nền tảng cho một truyền thống lâu dài của dân tộc, kỳ vọng vào việc viết chữ ngày tết để chúc phúc cho một năm mới an lành. Những dòng thơ tiếp theo, hình ảnh ông đồ hiện lên rực rỡ, tài hoa:

Bao nhiêu bút thuê mời
Tấm tắc khen ngợi tài:
‘Hoa tay vẽ nét đẹp
Như phượng múa, rồng bay.

‘Hoa tay’ là biểu tượng của tài năng viết chữ của ông đồ. Hình dung ông đồ già mặc áo dài, đeo khăn xếp, cẩn trọng trên tờ giấy đỏ tươi, trình bày những chữ Nho một cách tinh tế. Tay ông đồ di chuyển nhịp nhàng, tạo nên những nét chữ mềm mại nhưng vững chắc, như phượng múa và rồng bay trên trang giấy. Khi đó, mọi người xung quanh đều ngạc nhiên và kính phục, thể hiện lòng trọng thưởng với người sáng tạo ra những bức chữ và với vẻ đẹp văn hóa của dân tộc. Nhưng giờ đây, chúng ta dễ dàng nhận thức sự phai nhạt của một quá khứ từng rực rỡ khi:

Nhưng mỗi năm mỗi trống trải
Người thuê viết đi đâu nay?
Giấy đỏ buồn mất hồn
Mực đọng trong nghiên buồn…

Câu hỏi từ từ như xoáy sâu vào lòng người đọc, câu nghi vấn của nhà thơ không chỉ đơn thuần hỏi về những người thuê viết. Sự nhộn nhịp của những bút thuê chữ xưa là biểu tượng của một thời đại trọng đạo Nho, giờ đây đã phai nhòa. Có phải đây là lời ám chỉ về sự mất mát của những giá trị văn hóa truyền thống? Câu thơ ‘mỗi năm mỗi vắng’ dường như làm trống trải, thưa thớt những giá trị lâu đời. Biện pháp nhân hóa ‘giấy đỏ buồn’ – ‘mực sầu’ đã hóa cụ thể nỗi buồn trong con người. Đây là hình ảnh thực, khi người thuê viết vắng mặt, giấy lâu ngày phai màu, không giữ được đỏ tươi như xưa, mực không mài mòn cũng đọng lại một chỗ. Với từ ‘buồn’, ‘sầu’, nhà thơ muốn người đọc cảm nhận được rằng, vì sự thờ ơ của người đời mà giấy trở nên ‘buồn’, không còn tươi tắn như trước, mực vì sầu mà không động chạm, đọng lại trong nghiên. Nỗi buồn của ông đồ hay của nhà thơ đã lan tỏa sang cảnh vật? Hình ảnh ông đồ lúc này trở nên lẻ loi, cô đơn:

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Một ông đồ xưa được tôn thờ, ngưỡng mộ bây giờ như một người bị đẩy ra xa xã hội. Ông vẫn giữ nguyên với cây bút ‘vẫn ngồi đấy’ nhưng người ta không còn chú ý đến ông, thậm chí phớt lờ sự tồn tại của ông. Người qua đường bận rộn, bước qua mà chẳng để ý đến ông đang ngồi đấy. Hình ảnh của ông trở nên lặng lẽ và buồn bã, thậm chí chiếc lá vàng rơi trên giấy cũng không còn làm xao lạc, có lẽ đó là lá vàng của một mùa thu sắp tàn của thời đại Nho Học. Trong thời buổi gió Á và mưa Âu nổi cuồng trên quê hương, con người có vẻ lãnh đạm, phớt lờ những truyền thống văn hóa đẹp của dân tộc, khiến cho chúng dần mất đi, và hồn dân tộc nhuốm màu buồn thênh thang như những đợt mưa bụi không ngừng.

Quá khứ đã trôi qua, lúc này, nhiều người mới chợt nhận ra sự vắng bóng của ông đồ:

Năm nay đào lại nở
Không còn bóng dáng ông đồ xưa
Những hồn cổ truyền muôn năm
Bây giờ ẩn mình ở đâu?

Trong khổ thơ trước, bóng dáng ông đồ vẫn lưu lại dù chỉ là ‘không ai hay’, nhưng ở đây, ông biến mất. Đào vẫn nở, vũ trụ vẫn tuần hoàn, nhưng ông đồ già năm nào đã không còn. Sự biến mất của ông cũng là sự biến mất của những giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc. Câu hỏi cuối bài: ‘Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?’ như một lời kêu gọi, gọi hồn tổ quốc, một tiếng than vọng muốn tìm lại mảnh hồn dân tộc đang phai dần.

Bài thơ là tâm huyết của người tác giả đối với tổ quốc, với những giá trị văn hóa cổ truyền lâu dài của dân tộc. Qua bài thơ, Vũ Đình Liên không chỉ thể hiện lòng khắc khoải sâu sắc với giá trị đạo Nho mà còn đặt vào tâm trí người đọc khao khát yêu mến những giá trị cổ truyền dân tộc.

Bài làm 7

Trong những ngày Tết rộn ràng, khi xuân về hồi hộp trên mọi con đường, những tâm hồn mê thơ trầm mình trong nhịp thơ giản dị, đậm chất nhân văn của nhà thơ Vũ Đình Liên qua bài thơ ‘Ông đồ’.

Bài thơ ra đời khi ông đồ đã trở thành một biểu tượng của quá khứ. Nho học đã lạc lõng, mọi người đua nhau theo đuổi thời đại mới với chữ Pháp và chữ Tây.

Hai đoạn đầu bài thơ, tác giả giới thiệu về những ngày hoàng kim của ông đồ:

Bấy nhiêu người thuê để viết
Tấm lòng khen tài ngợi ca
Hoa tay nhấc bút thảo nét
Như phượng múa, rồng bay.

Những lời khen phô diễn hào phóng, nhưng cân nhắc kĩ vẻ, đó chỉ là sự hâm mộ từ những người ngoài giới nghệ thuật. Thuê viết câu đối, hành trình tựa như bước chân lạc lõng của người trải qua nghiệp khoa bảng. Nếu đỗ cử nhân, tiến sĩ, hay cao cấp hơn, ông có thể trở thành quan trọng, nhưng nếu không, ông sẽ trở thành người chỉ biết trở về quê dạy học, buôn thuốc, hay thậm chí xem tử vi ở đô thị, như một lần Tản Đà từng thực hiện. Ngày tết, việc bán chữ trên vỉa hè có lẽ là sự không lựa chọn của giới tri thức. Bán chữ thực sự là thử thách lớn đối với những người theo đuổi tri thức ở mọi thời đại. Dù người dân yêu mến và thán phục năng lực văn chương mà họ không hiểu, hay chỉ là vũ đạo và hội họa, nên mới mặn mà khen ngợi. Lời khen này có thể không mang lại danh vọng cho ông đồ, có lẽ ông sẽ cảm thấy tiêu cực hơn, nhưng nó là sự an ủi đối với ông trong thời điểm khó khăn này. Tác giả giới thiệu: Cùng với bông đào, mỗi năm chỉ một lần, nhưng không ít những điều nguyên tắc như giấy đỏ và mực tàu, chữ nghĩa thánh hiền vẫn được trình bày trên phố.

Mỗi năm, mỗi lần vắng lặng
Người thuê viết ở đâu nay?
Giấy đỏ buồn không trọn vẹn
Mực ướt trong nghiên đau lòng…
Ông đồ vẫn ngồi đó
Trên con đường không một bóng người
Lá vàng rơi trên tờ giấy
Ngoài trời, mưa bụi gió bay

Ông đồ bị đẩy vào hoàn cảnh của một nghệ sĩ quên lãng, như một cô gái mất hết sức hút. Duyên phận như một cuộc gặp gỡ, Kết thúc duyên đi sớm, trở lại một mình. Ông đồ vẫn ngồi đó mà không có ai để ý. Hiện thực ngoài đời thường như vậy và chỉ như vậy, đó là sự đắt hàng. Nhưng trong thơ, cùng với cái hiện thực đó là trái tim của tác giả trên tờ giấy đỏ nhạt và mực biến thành nỗi đau thương, hay nhất là kết hợp với nỗi đau thương này là cảnh mưa phùn gió bấc. Hiện thực trong thơ là hiện thực của tình cảm, một tình cảm đang vui như những năm ông đồ ‘nổi tiếng’ có cảm nhận về gió mưa. Gió thổi lá rơi, lá vàng cuối mùa rơi trên tờ giấy, nằm yên vì tờ giấy chưa được sử dụng, không cần phải nhặt lá đó đi. Chiếc lá đứng yên trên nơi không phải của nó thể hiện hình ảnh của ông đồ ngồi đó, nhìn mưa bụi bay. Văn mô tả ít lời nhưng cảnh tượng hiện ra như một bức tranh, không chỉ bóng dáng của ông đồ mà còn cái nhìn châm biếm của xã hội qua đôi mắt của ông đồ. Tác giả đã thể hiện những chi tiết quan trọng: nơi ông đồ là bút mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự lạnh lùng không ai để ý. Thể thơ với tám câu, bốn mươi chữ, đã đủ để nói lên những bước cuối cùng của một thời kỳ tàn tạ.

hochoi.net - Học Hỏi

Có thể sử dụng ctrl + F để copy code nhanh hơn nhé!